Bản án 37/2021/HS-PT ngày 22/03/2021 về tội bắt người trái pháp luật

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 37/2021/HS-PT NGÀY 22/03/2021 VỀ TỘI BẮT NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Trong ngày 22/3/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/TLPT-HS ngày 04 tháng 01 N 2021 đối với các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Lý Tiến D, Trần Văn T2 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 196/2020/HS-ST ngày 29/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Văn Đ, sinh năm 2000; Nơi cư trú: thôn P, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề ngH: Tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Hoàng Văn D, sinh năm: 1977 và bà Lăng Thị N, sinh năm: 1979; Gia đình bị cáo có 02 chị em, bị cáo là thứ 2; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Họ và tên: Lăng Văn C, sinh năm 1989; Nơi cư trú: thôn C, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề ngH: Tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Lăng Văn B (đã chết) và bà Tạ Thị L, sinh năm 1950; Gia đình bị cáo có 09 anh chị em, bị cáo là thứ 9; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 24/8/2020 đến 02/9/2020 thì bị cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa)

3. Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề ngH: Tự do; Trình độ văn hóa: 04/12; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1972 (đã chết) và bà Đỗ Thị H, sinh năm 1968; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là thứ 3; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (Có mặt tại phiên tòa)

4. Họ và tên: Trần Văn T2, sinh năm 1993; Nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Dìu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề ngH: Tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Trần Xuân Q, sinh năm 1954 và bà Trần Thị L, sinh năm 1957; Gia đình bị cáo có 8 anh chị em, bị cáo là thứ 8; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2020 đến ngày 16/10/2020 thì được thay thế bằng biện pháp Bảo lĩnh, hiện tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Khoảng tháng 6 N 2020, Bùi Văn S, sinh năm 1990 trú tại Tổ dân phố V, thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng có nhận ủy quyền của một người Trung Quốc tên là LV CHENG XIANG ở địa chỉ: số 25, ngõ 5, L, thị trấn T, huyện L, tỉnh An Huy, Trung Quốc với nội dung ủy quyền cho S đòi nợ ông QIU ZHIHUA (tên tiếng Việt là Khoa), sinh năm 1975, Quốc tịch: Trung Quốc, cư trú tại số 752 đường L, phường H, thành phố B số tiền 87,279.50 Nhân dân tệ tương đương với 285.763.165 Việt Nam đồng.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 05/7/2020, Bùi Văn S cùng với 4 người khác là Trần Anh T, sinh năm 1988 trú tại Tổ dân phố V, thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng; Phạm Khắc T1, sinh năm 1987 trú tại thôn H, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; Cao Đức H, sinh năm 1982 ở thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng và Phạm Duy T3, sinh năm 1986 ở phường H, quận H, thành phố Hải Phòng đi xe ô tô nhãn hiệu HONDA CRV, biển kiểm soát 15A- 386.58 đến trụ sở Công ty TNHH xuất nhập khẩu RONG HE tại số 752 đường L, phường H, thành phố B để tìm ông QIU ZHIHUA đòi nợ (ông QIU ZHIHUA là chồng của bà Lăng Thị N- Giám đốc Công ty TNHH xuất nhập khẩu RONG HE). Khi đến nơi, thấy công ty đóng cửa, nhóm của S gọi cửa thì có chị Hoàng Thị H, sinh năm 1997 là con riêng của bà N ra mở cửa và thông báo là bà N và ông QIU ZHIHUA đi vắng. Sau đó nhóm của S đi ăn cơm trưa còn chị H gọi điện thoại báo cho bà N biết sự việc rồi khóa cửa lại. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, nhóm của S quay lại số nhà 752 đường L bấm chuông gọi cửa, chị H không ra mở cửa, nhóm của S gọi và đập cửa nhiều lần không thấy có ai mở cửa thì bỏ đi uống nước. Lúc này, chị H gọi điện cho em trai là Hoàng Văn Đ, sinh năm 2000, ở thôn P, xã Q, huyện L thông báo về việc có nhóm người lạ mặt đến đập cửa, đòi nợ. Đ nói với chị H “chị cứ ở đấy, lát em xuống”. Sau đó, Đ điện thoại và thuê chiếc xe nhãn hiệu Ford Trasit loại 16 chỗ biển kiểm soát 98B-018.94 của anh Tăng Văn V, sinh năm 1992 ở thôn G, xã K, huyện L. Đ nói với anh V thuê xe đi xuống thành phố B giải quyết công việc, anh V đồng ý, Đ hẹn anh V đón ở đầu cầu N, thị trấn C, huyện L. Sau khi thuê được xe, Đ gọi điện thoại cho Ngô Văn B, sinh nămgày 28/5/2002 ở thôn H, xã T, huyện L; Vi Văn H, sinh nămgày 24/5/2002 ở thôn T, xã T, huyện L; Lê Văn D, sinh nămgày 21/6/2003 ở thôn G, xã T, huyện L; Nguyễn Hoài N, sinh nămgày 05/11/2002 ở thôn R, xã K, huyện L thông báo về việc mẹ Đ bị nhóm người Hải Phòng đến đòi nợ và rủ mọi người xuống thành phố B để đánh rằn mặt thì tất cả đồng ý. Trước khi đi, Đ gọi điện thoại cho cậu mình là Lăng Văn C sinh năm 1989 ở thôn C, xã Đ, huyện L thông báo tình hình thì được C nói “cứ xuống trước, lát cậu xuống sau”.

Khoảng 18 giờ cùng ngày 05/7/2020, Đ cùng với B, H, D, N ngồi xe ô tô do anh V điều khiển từ huyện L đi thành phố B. Trên đường đi, Đ gọi điện cho Đặng Thanh H, sinh nămgày 25/6/2002 ở thôn K, xã Huyền S, huyện L đang làm việc tại quán karaoke “Home” ở thị trấn Đ, huyện L rủ đi cùng và mượn hung khí để đánh nhau thì được H đồng ý. Khi gặp nhau, Đ và H1 lấy khoảng 10 con dao phóng lợn, dao quắm và gậy tuýp sắt mang lên xe. Sau đó, Đ B anh V đưa vào phòng trọ ở gần ngã ba C thị trấn Đ, huyện L của Nguyễn Duy C, sinh năm 1991 ở thôn K, xã C, huyện L để rủ C đi cùng. Khi đến phòng trọ của C, ngoài C còn có Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 ở tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện L; Phạm Văn H, sinh năm 2003 ở thôn H, xã T, huyện L; Lục Trung K, sinh năm 2000 ở thôn H, xã T, huyện L;

Nguyễn Tú P, sinh năm 1995 ở tổ dân phố L, thị trấn C, huyện L; Leo Văn H, sinh năm 1997 ở thôn B, xã N, huyện L và Leo Văn T, sinh năm 1998 ở thôn C, xã N, huyện L. Đ rủ mọi người xuống thành phố B để đánh nhóm người đến nhà Đ đòi nợ thì được tất cả đồng ý và lên xe đi cùng Đ. Trên đường đi, Đ tiếp tục gọi điện cho Lê Mạnh C, sinh năm 1999 ở thôn C, xã P, huyện L để rủ đi cùng. Lúc này, C đang ngồi uống rượu với Lý Tiến D ở thôn 3, xã Q, huyện L và Lê Văn T3, sinh nămgày 09/12/2003 ở thôn N, xã T, huyện L nên C rủ D và T3 đi cùng thì được cả 2 đồng ý và bắt taxi đuổi theo xe chở nhóm Đ, đến ngã ba đường Tâm Linh hướng đi thành phố B thì đuổi kịp và sang xe của anh V.

Sau khi nhận được điện thoại của Đ, Lăng Văn C gọi điện thoại cho Trần Văn T2, sinh năm 1993 ở thôn T, xã Q, huyện L để rủ T đi cùng. Tiếp đó C gọi điện thoại và thuê xe taxi của anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1999 ở thôn Đ, xã P, huyện L chở xuống thành phố B để giải quyết việc cá nhân. C B L đi đón T trước rồi qua đón C. Sau đó, C tiếp tục gọi điện thoại cho Lục Văn D, sinh 1997 ở thôn T, xã Q, huyện L để rủ D tham gia. Lúc này D đang ở phòng trọ tại huyện V cùng với Trương Văn T3, sinh năm 1995 và Trần Văn T2rung, sinh năm 2000 ở cùng thôn T, xã Q, huyện L. D rủ T3, T2 cùng đi và được cả hai đồng ý. Sau đó, cả ba bắt xe taxi lên khu vực đường H, phường H, thành phố B đợi C. Khoảng 19 giờ cùng ngày, xe của C đến nơi, đón D, T3, T2 rồi đi ăn cơm tối. Ăn cơm xong thì C B anh L chở cả nhóm về số nhà 752 đường L, phường H, thành phố B nhưng không thấy nhóm của anh S, xe ô tô của Đ cũng chưa đến nên C B anh L đỗ xe để mọi người xuống xe đợi nhóm của Đ.

Một lát sau, xe ô tô của Đ đi đến và đỗ ở cách số nhà 752 đường L, phường H, thành phố B khoảng 50 mét. Đ nói với mọi người “mấy anh em xuống nhà ngồi uống nước còn lại ngồi trên xe khi nào tôi gọi thì xuống”. Nói xong Đ cùng với C, C, P xuống xe; C là người mở cửa cho mọi người vào trong nhà 752 L, phường H, thành phố B rồi đi ngoài, sang bên đường. Lúc này ở trong nhà, Đ xin chị H xin số điện thoại S rồi gọi cho S B “em là phiên dịch của bố Khoa (QIU ZHIHUA), hôm nay các anh đến nhà em làm gì đấy, các anh quay lại đây nói chuyện”, S đồng ý. Đ tắt máy rồi quay ra B mọi người lên tầng 2 đợi khi nào nhóm Hải Phòng đến thì xuống. Khoảng 10 phút sau, Bùi Văn S cùng Cao Đức H, Trần Anh T, Phạm Khắc T1 và anh Phạm Duy T3 đi xe ô tô nhãn hiệu HONDA CRV, biển kiểm soát 15A- 386.58 đến đỗ ở trước cửa số nhà 752 Lê Lợi. Sau đó, H, S, T và T3 xuống xe đi vào trong nhà số 752 còn anh T1 ở lại trên xe. Lúc này, C từ bên đường đi về nhà, Đ ở trong nhà gọi điện thoại cho H đang ở ngoài xe nói “B anh em vào đi nhưng không cầm theo hung khí” rồi cùng với số đối tượng trên tầng 2 đi xuống tầng 1. Khi gặp nhau, Đ cùng mọi người đuổi đánh nhóm S làm nhóm của S sợ bỏ chạy. S lên xe ô tô cùng anh T1 phóng đi, T, T3 chạy thoát còn anh H chạy ra cửa thì bị Đ giữ được và đấm vào mặt, bị H đấm hai cái trúng vào lưng. C thấy vậy chỉ tay và nói “đánh nhau rồi” và nhặt gạch ở dưới đất ném về phía anh H nhưng không trúng ai. D, H, T3, N, H1 chạy quay lại xe ô tô 16 chỗ lấy hung khí mang theo đuổi đánh nhóm S nhưng không đuổi được ai nên đã quay lại xe ô tô cất hung khí. Riêng anh H bỏ chạy sang bên đường rồi chạy vào trong quán cơm của bà Vũ Thị L, sinh năm 1961 ở số nhà 557 đường L, phường H, thành phố B thì bị Đ đuổi và đánh bằng chân tay không, cầm ghế nhựa đập vào lưng; T dùng chân tay không đánh vào người; Lê Văn D đánh bằng chân tay không và cầm ghế nhựa đập vào đầu; H1 và B dùng chân đạp vào lưng; C tát vào mặt. Lúc này anh H bị thương chảy máu, ngồi trong quán cơm thì C hô “bắt nó đưa lên xe”. Thấy vậy thì Đ túm chân phải, T túm chân trái, T túm tay trái, Lê Văn D túm tay phải của anh H khiêng anh H trong tư thế nằm ngửa đưa lên xe ô tô của anh V. Lúc này, anh V cũng vừa quay đầu xe đến đỗ trước cửa quán cơm. Còn Lý Tiến D, Lê Văn T3 và các đối tượng khác đi lên xe ô tô ngồi. Khiêng anh H đi được vài bước qua cửa quán cơm thì Lê Văn D bị tuột tay nên không khiêng nữa. N thấy vậy chạy vào túm tay phải của anh H và cùng các đối tượng khác tiếp tục khiêng anh H đưa lên xe. Khi đi ra đến vỉa hè thì anh H chống cự, giẫy giụa, nhổ nước bọt vào mặt của Đ, nên Đ dùng chân đạp vào người của anh H làm cho mọi người bị tuột tay, anh H rơi xuống đất. N dừng lại không khiêng anh H nữa, các đối tượng còn lại vẫn tiếp tục cúi xuống cầm tay, cầm chân anh H khiêng đưa đến cửa xe ô tô và đẩy anh H vào trong xe. Anh H chống cự, dùng hai tay túm vào cửa xe, T liền gạt tay anh H ra, anh H ngã lao đầu xuống sàn xe, đầu ở sát vị trí chân của T3 đang ngồi trên xe. Thấy vậy T3 cúi xuống dùng hai tai nâng đầu anh H lên, T đi lên xe dùng hai tay túm vào hai bên hông của anh H, anh H tiếp tục giãy giụa thì T cùng với T3 nhấc, đẩy ép anh H ngồi vào ghế. Anh H chống cự, định bật dậy thì Lý Tiến D tiến lại dùng tay ấn, giữ vào vai của anh H để cho anh H ngồi im ở ghế. Sau đó, T và T3 mỗi người ngồi một bên khống chế không cho anh H bỏ chạy xuống xe. Sau đó, anh V điều khiển xe chở mọi người về L. Đ ở lại đi taxi về sau, C, T, C lên xe taxi của L đi về. Lục Văn D, T2 và T3 bắt xe taxi đi về phòng trọ ở huyện V, những người còn lại đi lên xe ô tô 16 chỗ đi về.

Trên đường về T3 tát một cái vào mặt của anh H và nói “mày thích đi đòi nợ à?”. Khi xe ô tô đi về trên đường T3 Linh, qua địa phận thành phố B thì Ch hỏi anh H là người ở đâu, anh H trả lời “ở Hải Phòng”. C tiếp tục hỏi anh H có quen người tên C “S” không? Anh H cho biết C “S” là bạn của mình, C B anh H lấy điện thoại gọi cho Chiến để C nói chuyện. Sau đó Anh H gọi điện, C “S” nghe máy, C hỏi có quen anh H không thì được C “S” nói anh H là bạn. Sau đó C nói với mọi người trên xe là “toàn là anh em quen biết, coi như H” rồi B anh V dừng xe tại khu vực bãi đất trống đoạn qua ngã tư T, huyện Y để cho anh H xuống xe. Cùng lúc này thì Đ đi xe taxi đến nơi, Đ gặp H nói chuyện rồi lên xe ô tô 16 chỗ còn anh H lên xe taxi quay lại gầm cầu vượt BigC thuộc thành phố B và gọi điện thoại cho anh T1 đến đón đi về thành phố Hải Phòng. Sau đó anh H vào bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp, thành phố Hải Phòng khám và điều trị.

Ngày 07/7/2020, anh Cao Đức H có đơn trình báo Công an thành phố B. Cơ quan điều tra đã khám nghiệm hiện trường vụ án.

Ngày 08/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hoàng Văn Đ và Nguyễn Văn T. Cùng ngày, Lý Tiến D đến Công an thành phố B đầu thú.

Ngày 19/7/2020, Cơ quan điều tra cho Nguyễn Văn T nhận dạng, kết quả T nhận ra Đ, T3, Lý Tiến D, T là những người đã tham gia bắt anh H xảy ra ngày 05/7/2020.

Ngày 22/7/2020, Cơ quan điều tra cho Ngô Văn B và Nguyễn Hoài N nhận dạng, kết quả B và N đều nhận ra Đ, T, T, ngoài ra B nhận ra thêm Lý Tiến D là những người đã tham gia bắt anh H và đều nhận ra C là người hô “bắt nó lên xe ô tô” xảy ra ngày 05/7/2020.

Ngày 27/7/2020, Cơ quan điều tra cho Đặng Thanh H1 nhận dạng, kết quả H1 nhận ra Đ, T là những người đã tham gia bắt anh H và C là người hô “bắt nó lên xe ô tô” xảy ra ngày 05/7/2020.

Ngày 12/8/2020, Cơ quan điều tra cho Lê Văn T3 nhận dạng, kết quả T3 nhận ra Đ, T, N và T là những người đã tham gia bắt anh H, C là người hô “bắt nó lên xe ô tô” xảy ra ngày 05/7/2020.

Quá trình điều tra, Trần Văn T2 bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã. Ngày 22/8/2020, Trần Văn T2 đến Công an thành phố B ra đầu thú. Ngày 24/8/2020, Lăng Văn C đến Công an thành phố B đầu thú.

Anh Cao Đức H bị thương tích nhẹ, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định thương tích. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 9625/20/TgT ngày 21/9/2020, T2 tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với anh H là 0%.

Ngày 28/9/2020, Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt hành C đối với Hoàng Văn Đ, Vi Văn H, Lê Văn D, Lăng Văn C, Ngô Văn B, Đặng T H1, Nguyễn Văn T, Lê Văn T3 về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”.

Đối với Lý Tiến D, Phạm Văn H, Lê Văn T3, Nguyễn Hoài N và Đặng T H1 có hành vi cầm hung khí gồm dao, quắm, tuýp sắt đuổi đánh nhóm của S nH chưa sử dụng để gây thương tích cho ai, Công an thành phố B đã xử phạt vi phạm hành C về hành vi “Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ”.

Đối với Leo Văn H là đối tượng mà Đặng T H1 trình bày có tham gia bắt, khiêng anh H lên xe ô tô, Cơ quan điều tra đã xác minh, kết quả Leo Văn H vắng mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm người đối với Leo Văn H nhưng chưa có kết quả nên đã tách hành vi của Leo Văn H để tiếp tục xác minh làm rõ.

Đối với Nguyễn Duy C; Lục Trung K; Leo Văn T; Nguyễn Tú P, quá trình điều tra đã tiến hành triệu tập, xác minh nhiều lần tại gia đình và địa phương nhưng đến nay không biết các đối tượng này đi đâu, làm gì nên không có căn cứ xử lý vi phạm hành C. Đối với Lê Mạnh C; Trần Văn T2rung; Lục Văn D; Trương Văn T3, quá trình điều tra xác định không tham gia đánh, bắt anh H; không mang theo hung khí nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

Đối với anh Nguyễn Văn L; anh Tăng Văn V là những người làm dịch vụ chạy xe chở khách, được C và Đ thuê chở xuống thành phố B vào tối ngày 05/7/2020 không biết về hành vi bắt người trái pháp luật của Đ và đồng phạm nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

Đến nay, anh Cao Đức H không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

Đối với số hung khí các đối tượng mang theo, cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ được số hung khí trên.

Đối với vật chứng của vụ án bao gồm: 01 chiếc ghế nhựa mầu vàng, kích thước (0,7 x 0,4 x 0,35) m, có 01 chân bị gãy; 01 viên gạch vỡ kích thước (15 x 10 x 5) cm; 01 viên gạch vỡ kích thước (5 x 12 x 10) cm thu giữ trong quá trình khám nghiệm hiện trường; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám, có số IMEI 354389066787267 đã qua sử dụng tạm giữ của Hoàng Văn Đ; 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng, có số IMEI 354451065803949 đã qua sử dụng tạm giữ của Lý Tiến D đã nhập kho vật chứng Công an thành phố B để quản lý, B quản theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Lý Tiến D, Trần Văn T2, Lê Văn D, Nguyễn Hoài N và Lê Văn T3 đã khai nhận hành vi như nêu ở trên.

Tại Cáo trạng số 186/CT-VKS ngày 02/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo về tội “Bắt người trái pháp luật” theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Hình sự.

Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 196/2020/HS-ST ngày 29/11/2020 của Tòa án nhân dân thành phố B đã xét xử và quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn Đ, bị cáo Nguyễn Văn T.

Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 56, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lý Tiến D.

Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Văn T2 và Lăng Văn C.

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Lý Tiến D, Trần Văn T2, Lê Văn D, Nguyễn Hoài N và Lê Văn T3 phạm tội “Bắt người trái pháp luật”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 01 N 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/7/2020.

2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 N 02 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/7/2020.

2.3. Xử phạt bị cáo Lăng Văn C 01 N 02 tháng tù, thời hạn tù tính từ bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam 24/8/2020 đến 02/9/2020.

2.4. Xử phạt bị cáo Trần Văn T2 01 N tù, thời hạn tù tính từ đi thi hành án nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2020 đến ngày 16/10/2020.

Ngoài ra bản án còn tuyên phạt với các bị cáo khác, tuyên phần xử lý vật chứng, phần án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử xong, ngày 02/12/2020 bị cáo Hoàng Văn Đ nộp đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 04/12/2020 bị cáo Lăng Văn C và bị cáo Trần Văn T2 nộp đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.

Ngày 30/11/2020 bị cáo Nguyễn Văn T nộp đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Trước khi mở phiên tòa bị cáo Lý Tiến D có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ra thông báo về việc rút kháng cáo đối với bị cáo Lý Tiến D.

Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 đều trình bày lý do kháng cáo là hoàn cảnh gia đình khó khăn, các bị cáo phạm tội lần đầu, không hiểu biết pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Đ diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã kết luận và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 không có tranh luận gì.

Các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 nói lời sau cùng đêu đề nghị xin được giảm nhẹ hình phạt và bị cáo C, T xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 đã nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2, qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như quá trình xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm thấy đủ cơ sở xác định:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/7/2020, tại quán cơm của bà Vũ Thị L, sinh năm 1961 ở số nhà 557, đường L, phường H, thành phố B, Hoàng Văn Đ, Lý Tiến D, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Lê Văn D, Nguyễn Hoài N và Lê Văn T3 đã có hành vi bắt người trái pháp luật đối với anh Cao Đức H, sinh năm 1982 ở thôn H, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng.

Hành vi của các bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt người trái pháp luật” được quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của các bị cáo khác trong vụ án và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Án sơ thẩm đã căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ và diễn biến tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 thì thấy:

Xét vai trò các bị cáo thấy: Trong vụ án này các bị cáo đều cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, không có sự câu kết chặt chẽ, không có sự phân công nhiệm vụ cụ thể giữa các bị cáo trong việc thực hiện tội phạm nên chỉ mang tính đồng phạm giản đơn. Xét cụ thể vai trò của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo Đ là người gọi điện rủ các đối tượng khác đi gặp nhóm anh S, H, đồng thời thuê xe của anh V chở nhóm đi và trực tiếp thực hiện hành vi đuổi đánh, bắt anh H khiêng anh H từ đầu đưa lên xe và có hành vi đánh anh H khi anh H kháng cự nên có vai trò C; bị cáo C tuy không trực tiếp bắt anh H nhưng cũng thuê xe chở người đi và C hô “bắt nó đưa lên xe” kích động các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội nên vai trò thứ hai. bị cáo T là người tích cực thực hiện hành vi bắt anh H bằng việc túm chân trái anh H ngay từ đầu khiêng lên xe và có hành vi ép anh H lên xe, ép vào ghế ngồi và ngồi cạnh giữ để canh không cho H trốn khỏi xe nên có vai trò thứ 3; bị cáo T trực tiếp túm tay trái anh H khiêng lên xe, T khiêng anh H từ đầu đưa lên xe, nên T có vai trò thứ 4.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo đều khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên đều được hưởng tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Trần Văn T2, T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Các bị cáo C, T đầu thú nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nêu trên cho các bị cáo là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân, xâm phạm đến trật tự quản lý của cơ quan nhà nước, tổ chức được pháp luật bảo vệ; ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Bản án sơ thẩm đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T đánh giá toàn bộ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 01 N 06 tháng tù, Trần Văn T2 01 N tù, Lăng Văn C 01 N 02 tháng tù, Nguyễn Văn T 01 N 02 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật” theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự là phù hợp và đúng quy định.

Tại cấp phúc thẩm các bị cáo Hoàng Văn Đ, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T, Trần Văn T2 không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T như đề nghị của Đ diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Do các bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T không được chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ vào điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn Đ, bị cáo Nguyễn Văn T.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 01 N 06 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/7/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 N 02 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/7/2020.

- Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Văn T2 và Lăng Văn C.

Xử phạt bị cáo Lăng Văn C 01 N 02 tháng tù về tội “Bắt người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam 24/8/2020 đến 02/9/2020.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T2 01 N tù về tội “Bắt người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ đi thi hành án nhưng được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2020 đến ngày 16/10/2020.

[2] Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Các bị cáo Hoàng Văn Đ, Trần Văn T2, Lăng Văn C, Nguyễn Văn T mỗi người phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-PT ngày 22/03/2021 về tội bắt người trái pháp luật

Số hiệu:37/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về