Bản án 37/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2020/HSST ngày 12 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Hoàng Ngọc Gi; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 22 tháng 12 năm 2000 tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Triệu Minh Q, sinh năm 1974 và bà Hoàng Thị Nh, sinh năm: 1977; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 02; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/5/2020 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên, có mặt.

- Bị hại: Anh Trần Văn Th, sinh năm 1982, có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

- Người làm chứng:

+ Chị Hoàng Thị Ánh Ng, sinh năm 2000, vắng mặt.

+ Chị Hoàng Thu H, sinh năm 1977, vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Đức D, sinh năm 1974, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

+ Anh Nguyễn Hữu Ng1, sinh năm 1981, vắng mặt.

+ Chị Phạm Thị B, sinh năm 1973, vắng mặt.

+ Ông Phạm Văn Ng2, sinh năm 1968, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm LĐ, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

- Người chứng kiến:

+ Chị Phạm Thị Gi, sinh năm 1975, vắng mặt.

Địa chỉ: Xóm LĐ, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

+ Anh Lường Văn V, sinh năm 1988, vắng mặt.

+ Ông Hoàng Văn D, sinh năm 1966, vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 45 phút ngày 16/5/2020 Hoàng Ngọc Gi trú tại xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết vào xã TS, huyện VN để tìm mua ma túy. Khi đến Trạm kiểm lâm thuộc xóm KS, xã TS, huyện VN Gi xuống xe đi bộ về hướng nhà văn hóa xóm KS, xã TS. Khi đến cách nhà văn hóa khoảng 20m, Gi nhìn thấy tại sân bê tông trước cửa nhà văn hóa có dựng một chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Waves, Biển kiểm soát 20N5 - 4294 màu đỏ xám, sau này xác định là xe của anh Trần Văn Th, sinh năm 1982 trú tại xóm KS, xã TS đang làm ruộng cách đó khoảng 200m. Gi đi đến và quan sát xung quanh thấy không có người nên Gi đã nảy sinh ý định trộm cắp xe trên để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Thấy tại ổ khóa điện của xe không có chìa khóa, Gi đi vòng ra đầu xe, đến ngồi sát bên phải bánh trước của xe rồi dùng tay phải đưa vào khoảng trống giữa yếm phải và khung đầu xe, tìm dây điện nối với mặt sau ổ khóa điệnrồi giật mạnh khiến dây điện tuột ra khỏi mặt sau ổ khóa điện, thấy 2 dây điện màu đỏ quấn băng dính đen, đầu 2 dây có 1 phần kim loại màu vàng đồng thò ra ngoài, mỗi đoạn dài 1,5 cm. Gi dùng tay trái giữ 2 sợi dây điện, tay phải cầm 2 đầu dây kim loại và quấn nối phần sợi kim loại ở hai đầu dây điện với nhau, sau đó ngồi lên xe đạp cần khởi động của xe hai lần thì xe nổ. Gi điều khiển xe đi ra đường liên xã TS, rồi đi hướng CĐ- LH, vòng ra quốc lộ 1B, rẽ sang đường xã KM, huyện ĐH đến đoạn đường tròn CH, thành phố Thái Nguyên để tìm nơi tiêu thụ nhưng không được. Sau đó Gi điều khiển xe theo quốc lộ 1B về hướng Thái Nguyên - Lạng Sơn. Khi đến Km10 đoạn đi qua xóm LĐ, xã HT, huyện ĐH do xe có dấu hiệu bị hết xăng nên Gi đã vòng xe quay về hướng thành phố Thái Nguyên và dựng ở lề đường tìm cách mở yên xe để kiểm tra, nhưng không mở được. Sau đó, Gi đi bộ về hướng thành phố Thái Nguyên khoảng 100m để tìm xem có đồ vật gì có thể mở được yên xe không nhưng không có. Lúc này anh Nguyễn Hữu Ng, sinh năm 1981 trú tại xóm LĐ, xã HT nhà ở cách vị trí Gi dựng xe khoảng 80m thấy và nghi ngờ Gi trộm cắp tài sản nên đã ra nói chuyện với Gi. Do sợ bị phát hiện nên Gi đã để lại xe mô tô BKS 20N5-4294 tại đó rồi bắt xe Bus Phượng Hoàng - Quyết Thắng đi đến thành phố Thái Nguyên. Đến chiều cùng ngày bà Phạm Thị B, sinh năm 1973, trú tại xóm LĐ, xã HT nhà ở gần vị trí Gi dựng xe không thấy ai đến nhận chiếc xe trên đã báo Công an xã HT đến đưa xe về rồi bàn giao xe cho Công an huyện ĐH. Ngày 16/5/2020 bị hại là anh Trần Văn Th đã có đơn trình báo đến Công an xã TS về việc bị mất trộm chiếc xe trên, Công an xã TS đã lập biên bản sự việc và ngày 21/5/2020 và chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu có liên quan đến vụ việc cho Công an huyện VN. Ngày 21/5/2020 Công an huyện ĐH đã bàn giao chiếc xe trên cho Công an huyện VN kèm theo 01 đăng ký xe mô tô số 003352 mang tên Trần Văn Th. Ngày 29/5/2020 Hoàng Ngọc Gi đã đến Công an huyện VN làm việc và khai báo rõ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Quá trình điều tra Công an huyện VN đã tạm giữ của Gi 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave màu sơn xanh, đen, bạc biển kiểm soát 25T1-106.93 và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 004632 mang tên Lò Văn Ơ, địa chỉ: CT, MT, TU, Lai Châu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18 ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện VN kết luận giá trị chiếc xe mô tô trên tại thời điểm Gi chiếm đoạt là 7.500.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện VN bị cáo Hoàng Ngọc Gi đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Do có hành vi trên tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKSVN ngày 12 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Hoàng Ngọc Gi về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện VN luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Ngọc Gi về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá chứng cứ đã đề nghị xử phạt đối với bị cáo như sau: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Hoàng Ngọc Gi từ 9 đến 12 tháng tù, được trừ đi thời hạn đã tạm giam. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản do Gi trộm cắp của anh Th đã được cơ quan điều tra trả cho anh Th, anh Th không đề nghị gì thêm, không xem xét giải quyết. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Gi nhất trí với bản luận tội và không tranh luận với Viện kiểm sát. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin HĐXX cho hưởng mức án thấp nhất để có cơ hội sửa chữa trở thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với đơn trình báo, lời khai bị hại, lời khai người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ, bản ảnh hiện trường, biên bản nhận dạng, biên bản thực nghiệm hiện trường, vật chứng đã thu giữ, Kết luận định giá tài sản, các USB bên trong có dữ liệu điện tử ghi lại các hoạt động thực nghiệm điều tra, trích xuất, thu giữ video do cơ quan điều tra thực hiện và các tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Ngày 16/5/2020 tại sân bê tông trước nhà văn hóa xóm KS, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên, lợi dụng thời điểm vắng người Hoàng Ngọc Gi, sinh năm 2000 trú tại xóm LG, xã LH, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Waves, biển kiểm soát 20N5 - 4294 màu đỏ xám của anh Trần Văn Th, sinh năm 1982 cư trú xóm KS, xã TS, huyện NV, giá trị tài sản tại thời điểm Gi thực hiện hành vi trộm cắp là 7.500.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Gi đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều luật quy định như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:”.

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất của vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mà bị cáo đã gây ra.

[4]. Xét về ý thức chủ quan thấy: Bản thân bị cáo không ảnh hưởng gì về thể chất tinh thần, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.

[5]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo và phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6]. Xét về nhân thân thấy: Bị cáo Hoàng Ngọc Gi xuất thân từ gia đình làm nông nghiệp, được gia đình cho ăn học hết lớp 6/12 rồi nghỉ học ở nhà lao động tự do, ngày 16/5/2020 bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản của anh Th. Xét thấy cần phải có một mức án nghiêm khắc cách ly xã hội đối với bị cáo một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Gi là đối tượng nghiện ma tuý không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8]. Về trách nhiệm dân sự: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Waves, Biển kiểm soát 20N5 – 4294 màu đỏ xám giá trị tài sản tại thời điểm Gi thực hiện hành vi trộm cắp là 7.500.000 đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VN đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu là anh Th, anh Th không đề nghị gì thêm, do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9]. Đối với chiếc xe mô tô HONDA Waves biển kiểm soát 20N5 - 4294, 01 đăng ký mô tô, xe máy số 003352 mang tên chủ sở hữu là Trần Văn Th, ngày 01/7/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VN đã trả cho chủ sở hữu là anh Trần Văn Th quản lý và sử dụng.

[10]. Đối với chiếc xe mô tô HONDA Wave màu sơn xanh, đen, bạc biển kiểm soát 25T1 - 106.93 và đăng ký mô tô, xe máy số 004632 quá trình điều tra vụ án, xác định mang tên Lò Văn Ơ, địa chỉ CN, xã MT, huyện TU, tỉnh Lai Châu tạm giữ của Hoàng Ngọc Gi ngày 29/5/2020 là xe vật chứng thuộc vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra ngày 28/5/2020 do Công an thành phố SC đang thụ lý (khởi tố ngày 03/7/2020). Ngày 10/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VN đã bàn giao xe trên cho Công an thành phố SC để giải quyết theo thẩm quyền.

[11]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12]. Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN tại phiên toà hôm nay về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và khung hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với hành vi mà bị cáo gây ra Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Ngọc Gi phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Hoàng Ngọc Gi 12 (mười hai) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 30/5/2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Hoàng Ngọc Gi trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Hoàng Ngọc Gi phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Võ Nhai - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về