Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 03/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 37/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 03 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 50/2020/TLST-HNGĐ, ngày 26 tháng 02 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST- HNGĐ, ngày 18 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 126/3, đường Nguyễn Chí T, Tổ 69, Khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm 1983; địa chỉ: Số 126/1, đường Nguyễn Chí T, Tổ 69, Khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện ghi ngày 12/12/2019, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Thanh X là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2004, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 147, quyển số 01, ngày 26/8/2004 tại UBND xã (nay là phường) B, thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương.

Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống tại địa chỉ: Số 126/1, đường Nguyễn Chí T, Tổ 69, Khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.

Trong quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc, tuy nhiên qua một thời gian chung sống vợ chồng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng có nhiều bất đồng quan điểm, bà X không chăm lo gia đình,vợ chồng tự hòa giải những mâu thuẫn trong gia đình, tuy nhiên mâu thuẫn vợ chồng vẫn không thể giải quyết được, tính tình không hợp nhau, cuộc sống vợ chồng trở nên căng thẳng và mệt mỏi. Khoảng 06 năm trước đây bà X đã từng nộp đơn khởi kiện ly hôn nhưng sau đó bà X rút đơn khởi kiện. Cũng từ đó đến nay ông T và bà X không còn chung sống với nhau nữa, ông T đã sống riêng tại số 126/3, đường Nguyễn Chí T, Tổ 69, Khu phố 8, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương (kế bên nhà bà X). Vì vậy, nay thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, ông T không còn tình cảm với bà X, không thể hàn gắn được nên ông Nguyễn Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh X.

Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng có 02 con chung: Nguyễn Hoàng Anh Th, sinh ngày 25/10/2004 và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 24/01/2006. Hiện nay con chung đang sống cùng bà X. Mặc dù con chung đang sống cùng với bà X nhưng mọi việc chăm lo cho con ăn học đều do ông T cấp dưỡng. Do nhà ông T và bà X ở gần nhau nên hằng ngày các con vẫn thường xuyên qua lại cùng với ông T. Bà X thường hay đi chơi vắng nhà, không quan tâm các con. Sau khi ly hôn ông T có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, do các con có nguyện vọng sống cùng với bà X nên ông T đồng ý giao hai con chung cho bà X được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kèm theo đơn khởi kiện nguyên đơn giao nộp các tài liệu chứng cứ sau: Chứng minh dân dân, sổ hộ khẩu của ông Nguyễn Văn T (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản sao); giấy khai sinh của con (bản sao).

2. Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X.

Bị đơn không giao nộp tài liệu chứng cứ.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X vắng mặt không có lý do.

- Phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa.

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa:

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

* Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, 81, 82 của Luật hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

+ Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng: Không

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật: Ngày 12 tháng 12 năm 2019, ông Nguyễn Văn T có đơn khởi kiện ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bà Nguyễn Thị Thanh X. Từ những nội dung tranh chấp nêu trên, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[1.2]. Về thẩm quyền: Ông Nguyễn Văn T khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con đối với bà Nguyễn Thị Thanh X, đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại thời điểm thụ lý, bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X đang cư trú tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3]. Về việc tham gia phiên tòa của đương sự:

Tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn T có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Thanh X chung sống với nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 147, quyển số 01, ngày 26/8/2004 tại UBND xã (nay là phường) B, thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương. Việc chung sống và đăng ký kết hôn giữa ông T và bà X là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và Gia đình năm 2000 nên hôn nhân giữa ông T và bà X là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Ông T xác định hiện nay vợ chồng chung sống không có hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, vợ chồng đã không còn sống chung, nên ông T quyết định ly hôn với bà X.

Việc ông T và bà X không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau và không cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn nên vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần để tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng bà X vắng mặt điều này chứng tỏ bà X không mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc nên vợ chồng phải có trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ nhau về mọi mặt, tin tưởng yêu thương nhau, những mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng cần phải tìm cách giải quyết để xây dựng gia đình hạnh phúc.

Qua xác minh tại địa phương nơi ông T, bà X cư trú cho biết: Ông T và bà X là vợ chồng, hiện nay ông T và bà X không còn sống chung với nhau, quá trình chung sống vợ chồng ông T và bà X không yêu cầu địa phương giải quyết mâu thuẫn vợ chồng nên địa phương không biết nguyên nhân mâu thẫn vợ chồng ông T và bà X. Tại biên bản xác minh ngày 05/5/2020 mẹ của bà Nguyễn Thị Thanh X là bà Cao Mỹ L cung cấp “Ông T và bà X là vợ chồng, quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cải vã đánh nhau….Hiện nay vợ chồng không còn sống chung với nhau...” Nay, ông T xác định hiện nay không còn tình cảm với bà X, vợ chồng không thể nào có cơ hội hàn gắn. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa ông T và bà X đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ông T yêu cầu được ly hôn với bà X là có cơ sở. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Văn T đối với bà Nguyễn Thị Thanh X.

[2.2]. Về con chung: Qúa trình chung sống ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Thanh X có 02 con chung: Nguyễn Hoàng Anh Th, sinh ngày 25/10/2004 và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 24/01/2006. Hiện nay con chung đang sống cùng bà X. Mặc dù con chung đang sống cùng với bà X nhưng ông T có nguyện vọng sau khi ly hôn được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, tuy nhiên do các con có nguyện vọng được sống cùng bà X nên ông T đồng ý giao hai con chung cho bà X tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Xét thấy, hiện nay con chung đang sống cùng bà X và con chung có nguyện vọng được sống cùng với bà Nguyễn Thị Thanh X. Vì vậy, để con chung phát triển ổn định, toàn diện cần giao con chung là Nguyễn Hoàng Anh Th, sinh ngày 25/10/2004 và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 24/01/2006 cho bà Nguyễn Thị Thanh X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[2.4]. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[3]. Tại phiên tòa, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4]. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Ông Nguyễn Văn T phải nộp 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự:

- Căn cứ các điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình:

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh X.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh X.

1.2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Hoàng Anh Th, sinh ngày 25/10/2004 và Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 24/01/2006 cho bà Nguyễn Thị Thanh X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Ông Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích hợp pháp của con chung, khi đương sự có yêu cầu Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con nếu cần thiết.

1.4. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn T phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0041463, ngày 18/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 03/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:37/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về