Bản án 37/2019/HSST ngày 20/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 37/2019/HSST NGÀY 20/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 39/2019/HSST ngày 19/4/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Hữu N, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 25/03/1990, tại huyện V, thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện V, thành phố Hải Phòng.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị N , sinh năm 1960, trú tại thôn T, xã C huyện V, thành phố Hải Phòng; vợ Bàn Thị Đ, sinh năm 1997; 01 con, sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai- có mặt.

2. Họ và tên: Vũ Văn T, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh ngày 09/9/1994, tại B , Lào Cai.

Nơi cư trú: Thôn G , xã G , huyện B , tỉnh Lào Cai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T , sinh năm 1968 và bà Lê Thị N , sinh năm 1969, cùng trú tại Thôn G , xã G , huyện B , tỉnh Lào Cai; vợ Sân Thị Ần, sinh năm 1996; 01con sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai- có mặt.

Người làm chứng: Chị Hù Thị T;

Đa chỉ: Đội 07, xã K, huyện B , tỉnh Lào Cai- vắng mặt.

Nhng người chứng kiến: Anh Nguyễn Quốc H;

Đa chỉ: Tổ 04, phường D, thành phố L, tỉnh Lào Cai - Vắng mặt.

Anh Lương Sơn H;

Đa chỉ: Tổ 45, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai-Vắng mặt.

Anh Phạm Ngọc B;

Đa chỉ: Tổ 26, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 16 giờ ngày 18/01/2019, tổ công tác Công an thành phố Lào Cai làm nhiệm vụ tại đường An Dương Vương thuộc tổ 29, phường C, thành phố L phát hiện 01 nam giới điều khiển ô tô, biển kiểm soát 24A-089.80 dừng đỗ bên lề đường có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội ma túy. Quá trình kiểm tra có sự chứng kiến của ông Lương Sơn H, bị cáo Vũ Văn T tự giác lấy từ túi quần bên trái đang mặc ra 01 mảnh giấy vệ sinh mầu trắng, mở kiểm tra bên trong có 01 túi ni lon mầu trắng đựng 10 viên nén hình tròn mầu vàng, trên một mặt mỗi viên được dập chìm hình vương miện, mặt còn lại đều được dập chìm chữ “ROLEX” và 01 túi ni lon mầu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn mầu trắng. Bị cáo T khai 10 viên nén trên là ma túy kẹo; các hạt tinh thể rắn mầu trắng là ma túy Ke, bị cáo Thảo cất giữ trên người với mục đích để bán với giá 8.600.000 đồng nhưng chưa kịp bán cho ai thì bị bắt giữ. Tổ công tác đã dẫn giải bị cáo Vũ Văn T cùng vật chứng và xe ô tô trên về Công an thành phố Lào Cai làm việc và có mời thêm ông Phạm Ngọc B cùng chứng kiến việc kiểm tra xe ô tô trên nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì. Tổ Công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, còn thu giữ của Vũ Văn T gồm: 01 ví giả da mầu nâu đã qua sử dụng; 01 xe ô tô, biển kiểm soát 24A-089.80; 01 điện thoại OPPO đã qua sử dụng, số IMEI 1: 867453032140710, IMEI 2: 867453032140702; 01 giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Vũ Văn T và 1.480.000đ( Một triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng).

Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Vũ Văn T và tài liệu điều tra. Hồi 18 giờ 40 phút ngày 18/01/2019, Công an thành phố Lào Cai phối hợp với Công an phường Duyên Hải kiểm tra hành chính phòng trọ thứ 2, số nhà 017, đường T, thuộc tổ 4, phường D thành phố L và mời ông Nguyễn Quốc H chứng kiến việc kiểm tra. Quá trình kiểm tra trong phòng trọ có 01 nam giới và 01 nữ giới. Người nam giới khai tên: Nguyễn Hữu N, người nữ giới khai tên: Hù Thị T. Bị cáo Nghị khai nhận: Vào khoảng 16 giờ ngày 18/01/2019, bị cáo có nhờ Hù Thị T đưa cho bị cáo Vũ Văn T 10 viên ma túy kẹo và 01 túi ma túy ke để bán với giá 8.500.000đ( tám triệu năm trăm ngàn đồng). N khai việc nhờ T đưa ma túy cho bị cáoT bán thì T không biết. Hù Thị T khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 18/01/2019, T được N nhờ cầm 01 gói giấy mầu trắng đưa cho Thảo và không biết bên trong là gì. Sau đó, bị cáo N tiếp tục khai nhận, bị cáo đang cất giấu 01 hộp giấy hình hộp chữ nhật tại vị trí trên nóc nhà tắm, bên trong hộp có chứa 03 túi ni lon mầu trắng, bên trong chứa các viên nén là ma túy kẹo. Bị cáo N tự giác lấy từ vị trí trên nhà tắm góc phía ngoài bên trái tính từ cửa buồng tắm 01 hộp hình chữ nhật, trên mặt hộp có chữ Zenny giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác mở kiểm tra bên trong có 01 túi ni lon mầu trắng, có 10 viên nén mầu xanh, trên một mặt của mỗi viên được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “- “; 01 túi ni lon mầu trắng, bên trong có chứa 09 viên nén hình tròn, mầu vàng, trên một mặt của mỗi viên được dập chìm hình vương miện, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm chữ “ROLEX” và 01 túi ni lon mầu trắng, bên trong có 05 viên mầu xanh, trên một mặt của mỗi viên được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “-“. Bị cáo N khai nhận: Toàn bộ số ma túy có đặc điểm như trên là ma túy kẹo của N . Mục đích cất giấu số ma túy trên trong phòng của T là để bán kiếm lời. Tổ công tác đã lập biên bản kiểm tra và niên phong toàn bộ số ma túy Nghị giao nộp theo quy định. Ngoài ra, tạm giữ của Nghị: 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Hữu N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 8800, số IMEI: 358645011909173; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu IphoneX, mầu trắng, số IMEI: 359403080076147 và 01 hộp giấy hình hộp chữ nhật, trên mặt hộp có chữ Zenny. Tạm giữ của Hù Thị T : 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Hù Thị T; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7 đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Lào Cai khám xét chỗ ở của Hù Thị T tại phòng trọ số 2, số nhà 017, đường T thuộc tổ 4, phường D, thành phố Lào Cai, thu giữ: Trên giá Inox để giầy dép giáp tường bên trái tính từ cửa ra vào 01 túi ni lon mầu trắng, bên trong chứa 07 túi ni lon mầu trắng, kích thước 2,5 x 3 cm và niêm phong theo quy định.

Ngày 23/01/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Lào Cai quyết định trưng cầu giám định giám định chất ma túy bị thu giữ số 50 và 51, trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và gửi số vật chứng thu giữ đi giám định.

Tại biên bản mở niên phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong đối với số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Hữu N, xác định: Niêm phong còn nguyên vẹn. Bên trong có 03 túi ni lon mầu trắng, được ký hiệu lần lượt là M1, M2 và M3.

- M1: 10 viên nén hình trụ tròn, màu xanh, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “-“. Khối lượng 3,25 gam, trích mẫu giám định 0,65 gam, còn 2,6 gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

- M2: 09 viên nén hình trụ tròn, màu vàng, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm hình vương miện, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm chữ “ROLEX”. Khối lượng 3,67 gam, trích mẫu giám định 0,84 gam, còn 2,83 gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

- M3: 05 viên nén hình trụ tròn, màu xanh, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “-“. Khối lượng 1,57 gam, trích mẫu giám định 0,62 gam, còn 0,95 gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

Tại biên bản mở niên phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong đối với số ma túy thu giữ của Vũ Văn T, xác định: Niêm phong còn nguyên vẹn. Bên trong là 01 gói vệ sinh mầu trắng, bên trong là một túi có chứa 10 viên nén hình trụ tròn, màu xanh, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “-“ (Ký hiệu M1) và 01 túi ni lon mầu trắng chưa các hạt tinh thể rắn mầu trắng (Ký hiệu M1).

- M1: Khối lượng 4,11 gam, trích mẫu giám định 0,83 gam, còn 3,28 gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

- M2: Khối lượng 0,78 gam, trích mẫu giám định 0,05 gam, còn 0,73 gam hoàn lại cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 64/ GĐMT ngày 25/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai đối với số ma túy thu giữ của bị cáo Vũ Văn T khi bắt quả tang ngày 18/01/2019 như sau: 4,11( bốn phẩy mười một) gam các viên nén hình trụ tròn, mầu vàng, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm hình vương miên, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm chữ “ROLEX” (Ký hiệu mẫu M1) là loại chất ma túy MDMA; 0,78( không phẩy bẩy mươi tám) gam các hạt tinh thể rắn, mầu trắng (Ký hiệu mẫu M2) là loại chất ma túy Ketamine.

Tại kết luận giám định số 65/GĐMT ngày 25/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai đối với số ma túy thu giữ của Nguyễn Hữu N khi kiểm tra hành chính ngày 18/01/2019 như sau: 3,25( Ba phẩy hai mươi lăm) gam các viên nén hình trụ tròn, mầu xanh, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “-“ (Ký hiệu mẫu M1) là loại chất ma túy MDMA; 3,67( ba phẩy sáu mươi bẩy) gam các viên nén hình trụ tròn, mầu vàng, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm hình vương miên, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm chữ “ROLEX” (Ký hiệu mẫu M2) là loại chất ma túy MDMA; 1,57( một phẩy măm mươi bẩy) gam các viên nén hình trụ tròn, mầu xanh, trên một mặt mỗi viên nén được dập chìm chữ “LV”, mặt còn lại của mỗi viên được dập chìm dấu “-“ (Ký hiệu mẫu M3) là loại chất ma túy MDMA.

Cáo trạng số 41/CT- VKSTPLC ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu N về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm p Khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo Vũ Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các bị cáo Nguyễn Hữu N, Vũ Văn T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, mục đích để bán kiếm lời. Bị cáo Nguyễn Hữu N đã mua 0,78 (không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine và 12,60( mười hai phẩy sáu mươi) gam MDMA để bán, bị cáo Vũ Văn T đồng phạm với bị cáo Nguyễn Hữu N đã đem bán 0,78 (không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine và 4,11( bốn phẩy mười một) gam MDMA. Vì vậy, các bị cáo Nguyễn Hữu N, Vũ Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với trọng lượng số ma túy mà các bị cáo đã bị thu giữ. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ, hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy. Do đó,Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hữu N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và bị cáo Vũ Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm p Khoản 2; khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N từ 08 năm đến 09 năm tù. Phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo số tiền 7.000.000đ Áp dụng Khoản 1; khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù. Phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo số tiền 5.000.000đ.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ: 0,73( không phẩy bẩy mươi ba) gam Ketamine và 9,66(chín phấy sáu mươi sáu) gam MDMA ; 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật, trên mặt hộp có chữ Zenny.

Tch thu: 01( một) điện thoại di đông, nhãn hiệu IphoneX, mầu trắng, số IMEI: 359403080076147 đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Hữu N và 01(một) điện thoại OPPO đã qua sử dụng, số IMEI1: 867453032140710, số IMEI2: 867453032140702 của bị cáo Vũ Văn T để sung ngân sách Nhà nước.

Tm giữ số tiền 1.480.000đ( Một triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng) của bị cáo Vũ Văn T để đảm bảo công tác thi hành án.

Tm giữ 01 (một)chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 8800, số IMEI: 358645011909173 đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Hữu N để đảm bảo công tác thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu N 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Hữu N; trả lại cho bị cáo Vũ Văn T 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T và 01( một) ví giả gia màu nâu đã qua sử dụng.

Ngoài ra, còn đề nghị tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Điều tra viên, Kiển sát viên Viện kiển sát nhân dân thành phố Lào Cai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, biên bản niêm phong vật chứng, sơ đồ vị trí bắt quả tang, kết luận giám định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáoVũ Văn T khai nhận do hám lợi, để có tiền tiêu sài cho bản thân, các bị cáo đã bán ma túy cho người khác, nên vào khoảng 15 giờ ngày 18/01/2019, bị cáo Nguyễn Hữu N đi bộ một mình từ phòng trọ của Hù Thị T đến khu vực gầm cầu Cốc Lếu thuộc phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai tìm mua ma túy để bán kiếm lời. Khi đến nơi, bị cáo Nguyễn Hữu N nhìn thấy 01 người nam giới không quen biết đeo kính đen, bịt khẩu trang kín mặt đứng ở đó. Bị cáo N đi đến vị trí người đàn ông này và hỏi “Anh có ma túy bán không”, người đàn ông trả lời “Có, lấy bao nhiêu”, bị cáo N bảo “Bán cho em ba tư viên kẹo và 01 chỉ ke, giá thế nào”, người đàn ông bảo “Mười bốn triệu chín trăm”, bị cáo Nguyễn Hữu N đồng ý và đưa cho người đàn ông này 14.900.000đ( Mười bốn triệu chín trăm ngàn đồng), người đàn ông đưa cho bị cáo N 05 túi ni lon màu trắng, gồm: 02 túi ni lon mỗi túi chứa 10 viên ma túy kẹo; 01 túi ni lon chứa 09 viên ma túy kẹo; 01 túi ni lon chứa 05 viên ma túy kẹo; 01 túi ni lon chứa ma túy ke, cùng một túi ni lon màu trắng bên trong có 07 túi ni lon mầu trắng chưa qua sử dụng. Bị cáo Nguyễn Hữu N cầm số ma túy vừa mua được cho vào túi quần dài phía trước đang mặc, rồi đi về phòng trọ của Hù Thị T . Khoảng 15 giờ 50 phút cùng ngày, bị cáo Vũ Văn T đang đỗ xe ô tô ta xi hãng Gia Vũ, biển kiểm soát 24A - 089.80 tại khu vực đường Hồng Hà, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai thì có 01 nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ gọi điện cho bị cáo Vũ Văn T đặt mua 10 viên ma túy kẹo và 02 chỉ ma túy Ketamine, bị cáo Thảo đồng ý và hẹn người nam giới trên khoảng 10 phút sau sẽ gặp nhau tại khách sạn Cao Minh, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai để đưa ma túy. Khoảng 15 giờ 52 phút cùng ngày, khi bị cáo Nguyễn Hữu N và Hù Thị T đang ở tại phòng trọ thì bị cáo Vũ Văn T dùng điện thoại số thuê bao: 0963.313.550 gọi điện vào số thuê bao của bị cáo Ng là 0395.979.555 bảo với Nghị “Có người hỏi, anh còn đồ không”. Vì trước đó, bị cáo T biết bị cáo Nghị có ma túy bán. Bị cáo N rả lời “Còn”, bị cáo T bảo “Anh lấy cho em 10 viên kẹo và 02 chỉ ke”, bị cáo N đồng ý trả lời “Ừ, anh chỉ còn một chỉ ke thôi, lên nhà lấy đi”. Sau đó, Hù Thị T đi tắm, bị cáo N lấy từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra 01 túi ni lon chứa 10 viên ma túy kẹo và 01 túi ni lon chứa ma túy ke cho vào một mảnh giấy vệ sinh gói lại. Số ma túy còn lại, bị cáo N cho vào một chiếc hộp giấy, hình hộp chữ nhật, trên mặt hộp có chữ “ZENNY” và để trên nóc nhà tắm, còn túi ni lon chứa 07 túi ni lon màu trắng bị cáo Ng để ở trên giá Inox để giầy dép ở sát tường bên trái phòng trọ. Sau khi gọi điện cho bị cáo Nguyễn Hữu N, bị cáo Vũ Văn T điều khiển xe ô tô, biển kiểm soát 24A - 089.80 đi đến trước cửa số nhà 017, đường Thanh Niên thuộc tổ 4, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai dừng lại và dùng số điện thoại trước gọi điện cho bị cáo Nguyễn Hữu N, nhưng bị cáo N không nghe và tắt máy. Khi Hù Thị T tắm xong, bị cáo N đưa gói giấy vệ sinh mầu trắng bên trong chứa ma túy cho T và bảo T mang ra đưa cho bị cáo Vũ Văn T, khi đưa bị cáo N không nói cho T biết bên trong có gì nên T không biết là ma túy, T đã cầm đi ra ngoài đưa cho bị cáo T đang ngồi đợi trong xe, bị cáo T cầm và cho vào túi quần dài phía trước đang mặc, rồi điều khiển xe ô tô đi xuống khu vực khách san Cao Minh để bán ma túy cho người đàn ông đã đặt mua ma túy. Khi đi đến khu vực khách sạn Quỳnh Mai trên đường Thủy Hoa, phường Duyên Hải, bị cáo Vũ Văn T nhận được tin nhắn từ số điện thoại trên của bị cáo N với nội dung “Tổng 8tr5 nhé”, bị cáoT hiểu là giá số ma túy bị cáo N đưa cho là 8.500.000 đồng, nếu bán được bị cáo N sẽ cho 500.000 đồng. Hồi 16 giờ 09 phút cùng ngày, khi bị cáo Vũ Văn T đang dừng đỗ xe bên lề đường trước cửa khách sạn Cao Minh để bán số ma túy bị cáo N đưa thì bị Tổ công tác Công an thành phố Lào Cai kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Căn cứ vào lời khai của bị cáo Vũ Văn T, khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, Công an thành phố Lào Cai phối hợp với Công an phường Duyên Hải kiểm tra hành chính phòng trọ số 2, số nhà 017, đường Thanh Niên thuộc tổ 4, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai. Tại đây, bị cáo Nguyễn Hữu N đã lấy toàn bộ số ma túy cất giấu trên nóc nhà tắm giao nộp cho Tổ công tác, tiến hành khám xét phòng trọ còn thu giữ 01 túi ni lon mầu trắng, bên trong chứa 07 túi ni lon mầu trắng, kích thước 2,5 x 3 cm và niêm phong theo quy định.

Lời khai của bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận ngày 18/01/2019 bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy để kiếm lời. Trong đó bị cáo Nguyễn Hữu N phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng là 12,60 (Mười hai phẩy sáu mươi) gam MDMA và 0,78( không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine; bị cáo Vũ Văn T đồng phạm với bị cáo Nghị,phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy bị thu giữa là 4,11 (bốn phẩy mười một) gam MDMA và 0,78( không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine. Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm p Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn về ma tuý trên địa bàn thành phố Lào Cai. Bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T là người có đầy đủ năng lực hành vi, có sự hiểu biết xã hội. Các bị cáo nhận biết rõ Ketamine và MDMA là các chất ma túy mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng vì hám lời muốn có tiền tiêu sài cho bản thân, các bị cáo đã không có ý thức chấp hành pháp luật nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, đối với bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T cần phải có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[3] Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, các bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ. Đối với bị cáo Nguyễn Hữu N là người chủ mưu, là người trực tiếp đi mua ma túy về để bán. Do vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm với vai trò chính trong vụ án và chịu trách nhiệm hình sự với tổng số ma túy thu giữ có khối lượng là 12,60 (Mười hai phẩy sáu mươi) gam MDMA và 0,78( không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine.

Đi với bị cáo Vũ Văn T là người mang ma túy của bị cáo Nguyễn Hữu N đi bán với mục đích để được bị cáo N cho 500.000đ( năm trăm ngàn đồng) và bán chênh lệch được 100.000đ( Một trăm ngàn đồng) thì bị bắt quả tang, do đó, bị cáo Vũ Văn T đồng phạm với bị cáo Nguyễn Hữu N với vai trò là người thực hành và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy mang đi bán bị thu giữ có khối lượng là 4,11 (bốn phẩy mười một) gam MDMA và 0,78 (không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi phạm tội trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà các bị cáo được hưởng. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “ Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc cấm làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng và xử lý vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai đã thu giữ số ma túy của các bị cáo Nguyễn Hữu N và Vũ Văn T với tổng trọng lượng là 12,60 (Mười hai phẩy sáu mươi) gam MDMA và 0,78( không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine. Ngoài ra, còn thu giữ của bị cáo của Nguyễn Hữu N 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Hữu N; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 8800, số IMEI: 358645011909173; 01 điện thoại di đông, nhãn hiệu IphoneX, mầu trắng, số IMEI: 359403080076147 và 01 hộp giấy hình hộp chữ nhật trên mặt hộp có chữ Zenny; Tạm giữa của bị cáo Vũ Văn T : 01 ví giả da mầu nâu đã qua sử dụng; 01 điện thoại OPPO đã qua sử dụng, số IMEI 1: 867453032140710, IMEI 2: 867453032140702; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T và 1.480.000đ( Một triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng).

Đi với số ma túy thu giữ của các bị cáo Nguyễn Hữu N,Vũ Văn T với tổng trọng lượng là 0,78( không phẩy bẩy mươi tám) gam Ketamine và 12,60 (mười hai phẩy sáu mươi) gam MDMA, cơ quan giám định đã trích mẫu để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại là 0,73(không phẩy bẩy mươi ba) gam Ketamine và 9,66 (chín phẩy sáu mươi sáu) gam MDMA được niêm phong hoàn trả cơ quan trưng cầu. Đây là chất ma tuý nhà nước cấm lưu hành ,vì vậy, cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đi với 01 điện thoại di đông, nhãn hiệu IphoneX, mầu trắng, số IMEI: 359403080076147 thu giữa của bị cáo Nghị và 01 điện thoại OPPO đã qua sử dụng, số IMEI 1: 867453032140710, IMEI 2: 867453032140702 thu giữa của bị cáo Thảo. Đây là tài sản các bị cáo dùng làm công cụ phạm tội, nên cần tịch thu để sung ngân sách Nhà nước là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đi với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T và 1.480.000đ (Một triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng); 01(một) ví giả gia màu nâu đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 8800, số IMEI: 358645011909173;

01thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Hữu N. Đây là tài sản của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho các bị cáo là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các bị cáo còn phải thi hành khoản tiền án phí nên cần tạm giữ của bị cáo Nguyễn Hữu N 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 8800, số IMEI: 358645011909173 đã qua sử dụng; tạm giữ của bị cáo Thảo số tiền 1.480.000đ (Một triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng) để đảm bảo công tác thi hành án về khoản tiền án phí. Số tiền còn lại trả cho bị cáo Thảo.

Đi với 01 hộp giấy hình hộp chữ nhật, trên mặt hộp có chữ Zenny thu giữ của bị cáo Nghị. Đây là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đi với 01 xe ô tô, biển kiểm soát 24A - 089.80 tạm giữ của bị cáo Vũ Văn T ngày 18/01/2019. Quá trình điều tra chứng minh, chiếc xe này là của chị Nguyễn Thị Việt H cho Công ty Cổ phần phát triển Thương mại Gia Vũ thuê. Ngày 18/01/2019, bị cáo Vũ Văn T là lái xe của công ty đã sử dụng chiếc xe trên bán ma túy, Công ty Cổ phần phát triển Thương mại Gia Vũ thuê không biết. Ngày 22/3/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Công ty Cổ phần phát triển Thương mại Gia Vũ là đúng quy định của pháp luật.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Hữu N, gồm: 12,60 gam MDMA và 0,78 gam Ketamine tại khu vực cầu Cốc Lếu thuộc phường Phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai với giá 14.900.000 đồng ngày 18/01/2019 và người đàn ông hỏi bị cáo Vũ Văn T mua 4,11 gam MDMA và 0,78 gam Ketamine. Do bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu và cũng không nhớ số điện thoại của người đó gọi đến cho bị cáo Thảo nên quá trình điều tra đã không chứng minh làm rõ được.

Đi với Hù Thị T là bạn gái mới quen biết của bị cáo Nguyễn Hữu N việc bị cáo N đem ma túy đến phòng trọ của mình cất giấu và nhờ T cầm gói giấy bên trong chứa ma túy đưa cho bị cáo T ngày 18/01/2019, T không biết và bị cáo Nguyễn Hữu N cũng không nói cho T biết. Nên, hành vi của Hù Thị T không cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đi với 01 chứng minh nhân dân mang tên Hù Thị T ; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7 đã qua sử dụng tạm giữ của Hù Thị T ngày 18/01/2019. Quá trình điều tra đã chứng minh, đây là những đồ vật, tài sản của Hù Thị Tuyết không liên quan đến vụ án. Ngày 22/3/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Hù Thị T là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T mỗi bị cáo phải chịu phải chịu 200.000đ( Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm p Khoản 2 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu N 08(tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 18/01/2019 Áp dụng Khoản 1 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 05( năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 18/01/2019

2. Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ: 0,73( không phẩy bẩy mươi ba) gam Ketamine và 9,66 (chín phấy sáu mươi sáu) gam MDMA được tái niêm phong trong hai phong bì thư , trên một mặt của bì thư có ghi: Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Hữu N và Vũ Văn T có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện (thu giữ) ngày 18/01/2019 tại tổ 04, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai và tại tổ 29, phường Cốc Lếu, thành phố lào Cai, tỉnh Lào Cai; 01 (một) hộp giấy hình chữ nhật trên mặt hộp có chữ Zenny.

Tch thu: 01 (một) điện thoại di đông, nhãn hiệu IphoneX, mầu trắng, số IMEI: 359403080076147 đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Hữu N và 01 (một) điện thoại OPPO đã qua sử dụng, số IMEI1: 867453032140710, số IMEI2: 867453032140702 của bị cáo Vũ Văn T để sung ngân sách Nhà nước.

Tm giữ số tiền 1.480.000đ (Một triệu bốn trăm tám mươi ngàn đồng) của bị cáo Vũ Văn T để đảm bảo công tác thi hành án về khoản tiền án phí. Số tiền còn lại trả cho bị cáo Vũ Văn T.

Tm giữ 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia 8800, số IMEI: 358645011909173 đã qua sử dụng của bị cáo Nguyễn Hữu N để đảm bảo công tác thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu N 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Hữu N; trả lại cho bị cáo Vũ Văn T 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn T và 01 (một) ví giả da màu nâu đã qua sử dụng ( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/04/2019).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu N và bị cáo Vũ Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, điều 7, 7a, 7b và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HSST ngày 20/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:37/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về