Bản án 37/2019/HS-ST ngày 20/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 20/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2019/HSST ngày 21/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/QĐXXST-HS ngày 06/3/2019 đối với các bị cáo:

1/ Trần Hồng P; Giới tính: Nam; sinh năm 1991 tại tỉnh Hậu Giang; Hộ khẩu thường trú: Hoàng Hoa Thám, Phường 06, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trần Văn L và bà Nguyễn Thị H; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: 02; (1) – Ngày 28/10/2011 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, (2) – Ngày 10/02/2015 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 06/11/2018 (có mặt).

2/ Trần Võ Khánh A; Giới tính: Nữ; sinh năm 1996 tại tỉnh Hậu Giang; Hộ khẩu thường trú: phường 07, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Trần Hữu T và bà Võ Thị Kim C; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có chồng, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 16/01/2019 (có mặt)

Bị hại:

1/ Ông Nguyễn Hữu T, địa chỉ: phường 01, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

2/ Ông Võ Văn S, địa chỉ: phường 05, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị H, phường 06, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);

2/ Bà Trần Thị Hồng C, trú tại: phường 06, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 03 giờ ngày 28.7/2018, P đã điều khiển xe máy hiệu Click (không rõ biển số) chạy ngang qua phòng trọ của anh Nguyễn Hữu T tại số 07 đường Thiên Hộ Dương, Phường 01, quận Gò Vấp thì nhìn thấy cửa phòng không đóng, bên trong dựng một chiếc xe gắn máy hiệu Zebra biển số 64F5-7983, Ph liền gọi điện thoại cho A đang ở khách sạn Kim Uyên đường Nguyễn Văn Đậu, quận Bình Thạnh rủ An cùng Phúc lấy trộm xe máy, A đồng ý và đi đến đường Phạm Văn Đồng – Nguyên H gặp P, P chở A đi vào trong phòng nêu trên. Khi đến nơi, A đứng bên ngoài cảnh giới còn P đi vào trong phòng trọ đẩy chiếc xe ra chổ A đứng đợi rồi cùng về khách sạn Kim U. Đến sáng ngày hôm sau, P và A rút dây điện nổ máy xe rồi chạy đến tiệm cầm đồ đường Dương Quảng Hàm, phường 05, quận Gò Vấp, đến nơi P đứng bên ngoài còn A đem xe vào tiệm cầm được 2.000.000 đồng, cả hai cùng tiêu xài hết. Anh Nguyễn Hữu T khi phát hiện bị mất xe đã không đến Công an quận Gò Vấp để trình báo.

Khong 22 giờ tháng 09/2018 P chở A bằng xe gắn máy biển số 54S5- 6727 để đi trộm cắp tài sản, khi đi đến trước nhà phường 05, quận Gò Vấp do anh Võ Văn S làm chủ phát hiện chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 59V1-028.07 dựng trước nhà không người trông coi, trên ổ khóa xe có cấm sẵn chìa khóa xe nên P dừng xe lại nói với A đứng giữ xe và cảnh giới để P đi lấy trộm chiếc xe gắn máy rồi cùng A tẩu thoát về khách sạn quận 12. Khoảng 02 giờ sáng ngày hôm sau, A chạy chiếc xe gắn máy 59V1 – 028.07 lấy trộm được chạy đến trước cổng bến xe Miền Đông bán cho 01 thanh niên (không rõ lai lịch) được số tiến 1.700.000 đồng. Riêng anh S sau khi bị mất xe không đến Công an phường 05, quận Gò Vấp trình báo.

Ngày 05/11/2018 Công an phường Thạnh Xuân, quận 12 tạm giữ hành chính P và A. Tại Công an quận 12 P và A đã khai nhận hành vi lấy trộm tài sản như nêu trên nên Công an quận 12 đã thông báo cho Công an quận Gò Vấp việc đang tạm giữ P và A, để Công an quận Gò Vấp di lý P, A về Công an quận Gò Vấp xử lý.

Ngày 05/11/2018, anh Nguyễn Hữu T và Võ Văn S đến Công an quận Gò Vấp trình báo sự việc.

Cơ quan CSĐT đến tiệm cầm đồ Dương Quảng Hàm, phường 05, quận Gò Vấp để thu hồi vật chứng nhưng không thu hồi được.

Tại cơ quan điều tra, Trần Hồng P và Trần Võ Khánh A đã khai nhận hành vi phạm tội trên.

Vật chứng vụ án:

- Xe gắn máy hiệu SEEYES (dạng Max) biển só 54S5-6727 (đã trả cho chủ sở hữu);

- 01 túi xách nữ màu đen hiệu LYNACCS kích thước 15x20cm;

- 03 thanh kim loại được mải nhọn đầu (đoản);

- 02 khóa bằng kim loại màu trắng bac cỡ 8, 10;

- 01 khóa hình chữ L bằng kim loại dài khoảng 15cm; 01 cái tua vít bằng kim loại dài 15cm; 05 chìa khóa xe mô các loại Xe gắn máy hiệu Yamaha Nouvo biển số 59V1-028.07 không thu hồi được. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 345/KLGĐ ngày 12/11/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự quận Gò Vấp kết luận: ước tính giá trị xe gắn máy Yamaha Nouvo, số khung RLCN5P110AY-281038, số máy 5p11-281041 đã qua sử dụng tại thời điểm tháng 9/2018 là 7.733.000 đồng.

Anh Võ Văn S khai chiếc xe này mua vào năm 2010 và nhờ ông Nguyễn T (là chú) đứng tên đăng kí xe. Hiện ông T đã chết.

Xe gắn máy hiệu Zebra biển số 64F5-7983 không thu hồi được. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 26/KLĐG ngày 21/01/2019 của Hội Đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự quận Gò Vấp kết luận: ước tính trị giá xe gắn máy Zebra, số khung CF-11010090051, số máy HD1P53FMHY-0250294 đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 28/1/2018 là 967.000 đồng.

Anh Nguyễn Hữu T khai chiếc xe này mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) tại tỉnh Vĩnh Long với giá 5.000.000 đồng và chưa làm thủ tục sang tên. Qua xác minh, xe do ông Trịnh Văn H hiện cư ngụ tại tỉnh Vĩnh Long đứng tên chủ quyền xe. Cơ quan điều tra đã ủy thác điều tra ghi lời khai nhưng đến nay chưa có kết quả.

Ngày 24/11/2018, bà Nguyễn Thị H (mẹ ruột của Phúc) đã bồi thường cho anh S số tiền 7.000.000 đồng và anh Tài số tiền 3.000.000 đồng. Anh S và anh T nhận tiền và không thắc mắc khiếu nại gì khác Tại bản cáo trạng số 41/CTr-VKSGV ngày 20/02/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo Trần Hồng P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự, Trần Võ Khánh A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát luận tội, đưa ra quan điểm xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử - Xử phạt bị cáo Trần Hồng P từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.

- Xử phạt bị cáo Trần Võ Khánh A từ 09 tháng đến 01 năm tù.

- Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách nữ màu đen hiệu LYNACCS kích thước 15x20cm trong đó có 03 thanh kim loại được mải nhọn đầu (đoản), 02 khóa bằng kim loại màu trắng bac cỡ 8, 10, 01 khóa hình chữ L bằng kim loại dài khoảng 15cm; cái tua vít bằng kim loại dài 15cm; 05 chìa khóa xe mô các loại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì các bị cáo Trần Hồng P và Trần Võ Khánh A đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng các bị cáo Trần Hồng P và Trần Võ Khánh A “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự..

Đây là vụ án có đồng phạm nhưng thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo P rủ bị cáo A đi trộm cắp tài sản, bị cáo An đồng ý. Bị cáo A đứng ngoài cảnh giới để bị cáo P thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tài sản các bị cáo trộm cắp là 02 chiếc xe gắn máy được định giá tổng cộng là 8.700.000 đồng, đối với bị cáo P có 2 tiền án chưa được xóa án tích lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát quận Gò Vấp truy tố theo điểm g khoản 2 Điều 173 và bị cáo A theo khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự về tội Trộm cắp tài sản là có cơ sở.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của các bị hại, các bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của các bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, các bị cáo sẵn sàng phạm tội để có tiền tiêu xài mà không phải thông qua lao động chân chính, bất chấp hậu quả xảy ra. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích. Đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho các bị cáo các tình tiết: Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo A phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án tiền sự; gia đình của bị cáo Phúc đã bồi thường khắc phục hậu quả cho các bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung được qui định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên miễn phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà hôm nay, bị hại là ông Nguyễn Hữu T, Võ Văn S vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện gia đình của bị cáo P đã bồi thường khắc phục hậu quả cho ông T số tiền 7.000.000 đồng và ông S số tiền 3.000.000 đồng ông T và ông S không còn yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại Tại phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H cho biết đã thay bị cáo P bồi thường cho các bị hại và đồng ý cho luôn bị cáo P số tiền trên, không yêu cầu trả lại nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 túi xách nữ màu đen hiệu LYNACCS kích thước 15x20cm trong đó có 03 thanh kim loại được mài nhọn đầu (đoản), 02 khóa bằng kim loại màu trắng bạc cỡ 8, 10, 01 khóa hình chữ L bằng kim loại dài khoảng 15cm; cái tua vít bằng kim loại dài 15cm, 05 chìa khóa xe gắn máy các loại không còn giá trị xử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Hồng P và Trần Võ Khánh A phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Hồng P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính kể từ ngày 06/11/2018

Áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Võ Khánh A 01(một) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày 16/01/2019.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách nữ màu đen hiệu LYNACCS kích thước 15x20cm trong đó có 03 thanh kim loại được mải nhọn đầu (đoản), 02 khóa bằng kim loại màu trắng bạc cỡ 8, 10, 01 khóa hình chữ L bằng kim loại dài khoảng 15cm; 01 cái tua vít bằng kim loại dài 15cm, 05 chìa khóa xe gắn máy các loại.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 282/PNK ngày 29/11/2018 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên toà có thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 20/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về