Bản án 37/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 37/2019/HSST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06/8/2019, tại Nhà văn hóa thôn An T, thị trấn Phú T, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2019/HSST ngày 05/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2017/QĐXXST-HS ngày 12/12/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2019/HSST-QĐ ngày 30/07/2019 đối với:

1/ Bị cáo: PHẠM HỒNG T (Tên khác: Phạm Văn T), sinh năm: 1985, tại xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; Nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ và con bà Nguyễn Thị T; tiền án: Tại bản án 46/2009/HSST ngày 29/10/2009, Phạm Hồng T bị Tòa án nhân dân huyện Kim Thành xử phạt T 08 năm tù về tội Cướp tài sản. Ngày 26/5/2017, T chấp hành xong hình phạt tù của bản án; Tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/5/2019 đến ngày 09/5/2019, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 09/5/2019 đến nay. Có mặt.

2/ Bị hại: Chị Triệu Thị H; sinh năm 1992; trú tại: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

3/ Người làm chứng:

3.1/ Anh Nguyễn Văn M; sinh năm 1987; trú tại: Thôn Q, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt).

3.2/ Anh Nguyễn Văn T1; sinh năm 1987; trú tại: Thôn B, xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt).

3.3/ Bà Nguyễn Thị T; sinh năm 1960; trú tại: Thôn T, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/4/2019, Phạm Hồng T đi bộ đi chơi về qua cổng nhà chị Triệu Thị H - sinh năm 1992 ở thôn T - K - K - Hải Dương, thấy nhà chị H khóa cổng, cửa chính mở, trong nhà bật điện sáng nhưng không có ai ở nhà, nên T nảy sinh ý định vào nhà chị H để trộm cắp tài sản đem bán lấy tiền ăn tiêu. T trèo qua bờ tường bao phía bên phải cổng, đi vào trong nhà chị H, quan sát thấy tại gian phòng khách, chị H có để chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Apple, loại Ipad AIR 16GB, bị nứt kính bảo vệ màn hình dài 05 cm, có ốp bảo vệ giả da màu đen ở trên chiếc ghế gỗ. T lấy chiếc máy tính bảng trên cầm ở tay rồi trèo qua bờ tường bao ra ngoài, đem chiếc máy tính bảng vừa trộm cắp được về nhà cất giấu. Sau đó, T đi bộ ra khu vực ngã tư gần nhà chơi. Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi T đang đứng ở ngã tư thì gặp anh Nguyễn Văn M - sinh năm 1987 ở thôn Q - K - K điều khiển xe mô tô đi qua, T gọi anh M lại và bảo đứng đợi T nhờ tý việc. Sau đó, T đi về nhà lấy chiếc máy tính bảng trộm cắp được đem ra nhờ anh M tìm chỗ bán hộ, T nói với anh M chiếc máy tính bảng trên là của T. Anh M đồng ý và chở T đến cửa hàng mua bán điện thoại của anh Nguyễn Văn T1 - sinh năm 1987 ở thôn B - N - K rồi dừng xe ngồi ngoài cửa đợi, còn T cầm chiếc máy tính bảng vào bán cho anh 1 với giá 1.500.000 đồng. T nói với anh T1 chiếc máy tính bảng trên là của vợ T nhờ đi bán hộ. Sau khi bán được chiếc máy tính bảng, T nhờ anh M chở T về nhà. Khoảng 21 giờ cùng ngày, do nghi ngờ T là người đã trộm cắp chiếc máy tính bảng của mình, chị H nhắn tin và gọi điện thoại yêu cầu T trả lại, T thừa nhận đã trộm cắp chiếc máy tính bảng và hứa sẽ đem trả lại chị H, song sau đó T bỏ trốn và ăn tiêu hết số tiền 1.500.000 đồng. Ngày 06/5/2019, T đến Công an huyện Kim Thành đầu thú hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận số 29/KL-HĐĐG của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sụ huyện Kim Thành ngày 06/5/2019 kết luận: chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Apple, loại Ipad Air 16GB, kính bảo vệ màn hình bị nứt dài 05 cm trị giá 3.800.000 đồng; chiếc ốp lưng điện thoại giả da màu đen trị giá 95.000 đồng.

Về TNDS: Chiếc máy tính bảng bị cáo đã lấy của chị H, anh T1 đã bán cho người không rõ tên và địa chỉ nên không thu hồi được. Bị cáo đã nhờ mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị T - sinh năm 1960 mua trả bị hại chiếc máy tính bảng khác vào ngày 17/5/2019, bị hại đã nhận tài sản đền bù và không yêu cầu T phải bồi thường thiệt hại.

Cáo trạng số 36/VKS-HS ngày 04/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành đã truy tố bị cáo Phạm Hồng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Hồng T phạm tội “trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Hồng T từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/5/2019; về hình phạt bổ sung: không áp dụng; về trách nhiệm dân sự: bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hồ sơ điều tra, truy tố: HĐXX xác định hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Đánh giá chứng cứ chứng minh hành vi mà bị cáo đã thực hiện: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra cũng như lời khai của bị hại, người làm chứng. Những chứng cứ này cũng phù hợp khách quan với những tài liệu điều tra khác do Cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/4/2019, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, Phạm Hồng T trèo qua tường bao, đi vào trong nhà chị Triệu Thị H - sinh năm 1992 ở thôn T - K - K - Hải Dương, lấy của chị H chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Apple, loại Ipad Air 16GB, ốp lưng giả da màu đen, tổng trị giá 3.895.000 đồng;

[3] Đánh giá về cấu thành tội phạm và định khung hình phạt: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì mưu lợi cá nhân, lười lao động bị cáo đã có hành vi lén lút cố ý chiếm đoạt chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Apple, loại Ipad Air 16GB, kính bảo vệ màn hình bị nứt dài 05 cm trị giá 3.800.000 đồng; chiếc ốp lưng điện thoại giả da màu đen trị giá 95.000 đồng, tổng giá trị là 3.895.000 đồng của chị H, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Việc truy tố, xét xử bị cáo về điều khoản trên là đứng người, đúng tội, đứng pháp luật.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ: Bị cáo có 01 tiền án, chưa được xóa, nay lại cố ý phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Nhưng, trong quá hình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo có T độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và đã tác động gia đình mua đền cho bị hại chiếc máy tính bảng khác, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngày 06/5/2019, bị cáo đến Công an huyện Kim Thành đầu thú và bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng thêm 2 tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 BLHS.

[6] Về Trách nhiệm dân sự: bị hại đã được bồi thường một chiếc máy tính bảng khác và không yêu cầu phải bồi thường gì thêm, nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật TTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[8] Về những người khác liên quan trong vụ án: anh Nguyễn Văn M khi chở T đi bán chiếc máy tính bảng và anh Nguyễn Văn T1 khi mua chiếc máy tính bảng do T đem đến bán, đều không biết là đó là tài sản do T trộm cắp mà có, nên các Cơ quan tiến hành tố tụng không đặt ra việc xử lý đối với anh M và anh T1 là phù hợp.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Hồng T (tên gọi khác: Phạm Văn T) phạm tội “Trộm cắp tài sản;

2/ Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

3/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Hồng T 10 (Mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày 06/05/2019;

4/ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Hồng T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại. Báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, báo cho bị hại biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về