Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 20/6/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự đã thụ lý số 123/2018/TLST-HNGĐ ngày 03/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 06/5/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/5/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị PN, sinh năm 1989. (Có mặt)

Địa chỉ: SN 240A, Đường NCH, Phường TNH, thành phố B, tỉnh B.

2. Bị đơn: Anh Phạm Hồng B, sinh năm 1983. (Vắng mặt)

Địa chỉ: SN 03, ngõ 320, Đường NCH, Phường TNH, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn là chị Vũ Thị PN trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh Phạm Hồng B kết hôn ngày 12/10/2010, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang trên cơ sở tự nguyện và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2017 thì thường xuyên có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống về mọi mặt, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Từ tháng 3/2019 đến nay, anh chị đã sống ly thân nhau và không còn mối liên hệ gì. Đến nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Hồng B.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Phạm Vũ Nhật Minh, sinh ngày 20/5/2012 và Phạm Vũ Bảo Ngân, sinh ngày 16/11/2015. Hiện nay cả hai con chung đều khỏe mạnh, phát triển bình thường, cháu Ngân đang ở cùng chị, còn cháu Minh ở cùng anh Phạm Hồng B. Sau khi ly hôn thì chịi có nguyện vọng nuôi cháu Bảo Ngân và đồng ý để anh Phạm Hồng B nuôi cháu Nhật Minh. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 05/4/2019 và những lời khai tiếp theo tại Tòa án thì bị đơn là anh Phạm Hồng B trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Anh và chị Vũ Thị PN kết hôn ngày 12/10/2010, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang trên cơ sở tự nguyện và tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay và ở chung cùng gia đình anh, cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận hạnh phúc không có mâu thuẫn gì. Thực tế thì có những bất đồng quan điểm giữa mẹ chồng và con dâu chứ vợ chồng thì không có mâu thuẫn gì. Từ ngày 15/3/2019 đến nay thì chị Nhã cùng con gái Phạm Vũ Bảo Ngân đã tự ý dọn đồ ra thuê nhà trọ cho đến nay. Bản thân anh đã động viên chị Nhã nhiều nhưng chị Nhã không nghe. Anh đề nghị Tòa án hòa giải để hai vợ chồng về đoàn tụ với nhau. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, vợ chồng không có mâu thuẫn gì, chị Nhã khởi kiện ly hôn anh, anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Phạm Vũ Nhật Minh, sinh ngày 20/5/2012 và Phạm Vũ Bảo Ngân, sinh ngày 16/11/2015. Hiện nay cả hai con chung đều khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang ở với cả hai anh chị. Trường hợp phải ly hôn thì anh có nguyện vọng nuôi cháu Nhật Minh và để chị Nhã nuôi cháu Bảo Ngân.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Bắc xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Bắc xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được: Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành làm việc xác minh với mẹ đẻ của anh Bắc là bà Lê Thị Cơ. Bà Cơ cho biết chị Nhã và anh Bắc có đăng ký kết hôn và có thời gian tìm hiểu trước khi kết hôn. Sau khi kết hôn chị Nhã, anh Bắc về chung sống với nhau ngay và ở chung cùng gia đình bà. Cuộc sống chung vợ chồng anh Bắc, chị Nhã hòa thuận hạnh phúc không có mâu thuẫn gì. Tuy nhiên, từ ngày 16/3/2019 đến nay thì chị Nhã cùng con gái Phạm Vũ Bảo Ngân đã tự ý dọn đồ ra thuê nhà trọ cho đến nay không nói với bà và anh Bắc câu nào. Từ khi chị Nhã dọn đồ ra khỏi nhà thì ngày nào chị Nhã cũng vẫn đưa con sang gửi, sang chơi với bà và chiều lại đón con về. Nay chị Nhã có đơn yêu cầu ly hôn anh Bắc thì bà đề nghị Tòa án hòa giải để hai vợ chồng anh Bắc, chị Nhã về đoàn tụ với nhau. Trường hợp chị Nhã kiên quyết ly hôn anh Bắc thì bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các bên không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án. 

Tại phiên tòa ngày 29/5/2019 anh Bắc vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn là chị Vũ Thị PN vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và công nợ chung ở trên.

Anh Phạm Hồng B vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự như vắng mặt tại phiên tòa ngày 29/5/2019 và các phiên tòa. 

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử; Xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị PN được ly hôn anh Phạm Hồng B.

+ Về con chung: Giao cháu Phạm Vũ Nhật Minh, sinh ngày 20/5/2012 cho anh Bắc trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Phạm Vũ Bảo Ngân, sinh ngày 16/11/2015 cho chị Nhã trực tiếp nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: Chị Nhã phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nhã thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là Phạm Hồng B được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt anh là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nhã và anh Bắc kết hôn ngày 12/10/2010 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên xác nhận là hôn nhân hợp pháp theo Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Quá trình chung sống, qua xác minh tại gia đình, cũng như theo trình bày của chị Nhã và anh Bắc thì cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống. Hiện tại, vợ chồng đã ly thân, không ai còn tình cảm và quan tâm gì đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, anh Bắc mặc dù xin được đoàn tụ vợ chồng nhưng vắng mặt tại các phiên tòa nên Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Nhã và anh Bắc đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử cho chị Nhã được ly hôn anh Bắc.

[2.2] Về nuôi con chung: Chị Nhã và anh Bắc có 02 con chung là cháu Phạm Vũ Nhật Minh, sinh ngày 20/5/2012 và Phạm Vũ Bảo Ngân, sinh ngày 16/11/2015. Chị Nhã yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Vũ Bảo Ngân. Anh Bắc có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Nhật Minh và nhất trí để chị Nhã được nuôi dưỡng cháu Bảo Ngân. Tại biên bản lấy lời khai cháu Nhật Minh trình bày có nguyện vọng được ở cùng với mẹ là chị Vũ Thị PN. Tuy nhiên, anh Bắc và chị Nhã có hai con chung, cháu Bảo Ngân còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ, cháu Nhật Minh ở với anh Bắc từ khi còn nhỏ cho đến khi chị Nhã dọn ra ở riêng mặt khác chị Nhã và anh Bắc đều có công việc, thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho con chung. Xét điều kiện nuôi dưỡng của chị Nhã và anh Bắc là như nhau nên giao con chung Phạm Vũ Bảo Ngân cho chị Nhã trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Phạm Vũ Nhật Minh cho anh Bắc trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, đảm bảo quyền và lợi ích của con chung.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Nhã, anh Bắc không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Nhã phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Vũ Thị PN được ly hôn anh Phạm Hồng B.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Vũ Nhật Minh, sinh ngày 20/5/2012 cho anh Bắc trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Phạm Vũ Bảo Ngân, sinh ngày 16/11/2015 cho chị Nhã trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

Trường hợp cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí:

Chị Nhã phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang theo biên lai số AA/2016/0000344 ngày 03/4/2019. Xác nhận chị Nhã đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nhã có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Anh Bắc vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:37/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về