Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2019/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đỗ Thành N, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tổ 11, ấp T, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Phạm Thị D, sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ 11, ấp T, xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07 tháng 01 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Đỗ Thành N trình bày:

Anh với chị Phạm Thị D sống chung với nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh ngày 21-5-2013, hôn nhân tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng bất đồng quan điểm, nguyên nhân do chị D có quan hệ bất chính với người khác, anh đã tha thứ nhiều lần nhưng chị D không thay đổi nên từ đó mâu thuẫn luôn kéo dài, đến năm 2017 chị D bỏ nhà đi cho đến nay và chỉ về nhà 02 lần thăm con nhưng sau đó lại đi tiếp, hiện nay anh không biết chị D làm gì, ở đâu. Nay anh nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục sống chung nên yêu cầu xin ly hôn với chị D.

Về con chung: Vợ chồng có 01 người con tên Đỗ Thị Yến L, sinh ngày 19- 9-2013, hiện cháu đang sống chung với anh. Sau khi ly hôn anh yêu cầu nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã triệu tập hợp lệ và tống đạt các văn bản tố tụng cho chị Phạm Thị D nhưng chị vẫn vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo trình tự thủ tục, thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện các thủ tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không xảy ra vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với chị Phạm Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử, tiến hành xét xử vắng mặt chị D là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Xét thấy giữa anh Nhân và chị D đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến ly thân từ năm 2017 cho đến nay không thể hàn gắn được nên anh N yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận. Do đó căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 146 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

- Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Đỗ Thành N đối với chị Phạm Thị D.

- Về nuôi con chung: Từ khi chị D bỏ nhà đi cháu Đỗ Thị Yến L sống ổn định với anh N nên giao cháu Đỗ Thị Yến L, sinh ngày 19-9-2013 cho anh N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ghi nhận anh N không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận anh N không yêu cầu giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Đỗ Thành N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị D là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Anh Đỗ Thành N và chị Phạm Thị D chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2013, hôn nhân giữa anh, chị là tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử nhận định đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh N thấy rằng, trong quá trình giải quyết vụ án chị D đã được triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến, tuy nhiên tại biên bản xác minh ngày 23-5-2019 (bút lục số 21) thể hiện chị D và anh N không sống chung với nhau từ năm 2017 đến nay, mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân giữa anh N và chị D đã lâm vào tình trạng trầm trọng dẫn đến vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được nên anh N yêu cầu ly hôn với chị D là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi con chung: Xét thấy, từ khi chị D bỏ nhà đi cháu Đỗ Thị Yến L vẫn sinh sống ổn định với anh N cùng ông bà nội (cha, mẹ anh N), do đó giao con chung tên Đỗ Thị Yến L, sinh ngày 19-9-2013 cho anh Đỗ Thành N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận anh N không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận anh N không yêu cầu giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Đỗ Thành N phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Đỗ Thành N và chị Phạm Thị D.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên Đỗ Thị Yến L, sinh ngày 19-9- 2013 cho anh Đỗ Thành N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Ghi nhận anh N không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Chị Phạm Thị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận anh N không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Đỗ Thành N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu số 0015040 ngày 25 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; anh Nhân đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Đỗ Thành N và chị Phạm Thị D có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con 

Số hiệu:37/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về