Bản án 37/2018/HS-ST ngày 18/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 37/2018/HS-ST NGÀY 18/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY​​​​​​

Ngày 18 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Chí T (tên thường gọi là M); Sinh ngày: 22/10/1991; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường  trú: 240/115 đường  NVL, Phường  K, Quận  F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn B và bà: Ngô Thị K; Có vợ: Là bà Nguyễn Thị Bé O và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2011; Tiền án: Ngày 28/6/2013, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy » (Bản án số: 204/2013/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/6/2017 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 484/GCN của Trại giam Long Hòa); Tiền  sự:  Không; Bị ngày 20/01/2018. (có mặt) bắt, tạm giam

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 20/01/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 phát hiện Nguyễn Chí T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59K2-174.70 chạy đến trước  nhà số 51 đường  số 5, Phường  K, Quận F có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ trong cốp xe của T 01 gói nylon bên trong có chứa 08 viên nén (07 viên màu xanh dương, 01 viên màu xanh lá), 01 gói nylon bên trong có chứa chất bột màu trắng (T khai là ma túy tổng hợp). Ngoài ra, Công an còn thu giữ tại chỗ của T 01 máy tính bảng phía sau có ghi chữ iPad, có seri DMPMFSUSF4YF; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vertu, vỏ màu vàng (có sim điện thoại số thuê bao 0932446933) và số tiền 500.000 đồng. Sau đó, đã giao T cùng vật chứng nêu trên và chiếc xe gắn máy biển số 59K2-174.70 cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Chí T khai: Do nghiện ma túy tổng hợp, nên khoảng 23 giờ ngày 18/01/2018, T điện thoại cho một người tên H (không rõ lai lịch) hỏi mua 10 viên nén (thuốc lắc) với giá 250.000 đồng/viên và 02 gói ma túy khay với giá 1.100.000 đồng/gói để đem đến quán Bar 2000 cùng bạn bè sử dụng. Sau khi mua xong, T cùng bạn bè (không rõ lai lịch) sử dụng hết 02 viên thuốc lắc và 01 bịch ma túy khay, số còn lại chưa kịp sử dụng Công an phát hiện bắt giữ như đã nêu trên. 

Tại Kết luận giám định số: 370/KLGĐ-H ngày 26 tháng 01 năm 2018, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Một gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Chí T và hình dấu Công an Phường K, Quận F, bên trong có:

- Bột màu trắng trong 01 gói nylon cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2217g (không phẩy hai hai một bảy gam), loại Ketamine.

- 01 gói nylon chứa:

+ 01 viên nén màu xanh lá cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3558g (không phẩy ba năm năm tám gam), loại MDMA.

+ 07 viên nén màu xanh dương  cần giám định là ma túy khối lượng 2,7352g (hai phẩy bảy ba năm hai gam), loại MDMA

Đối với người thanh niên tên H, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 43/CT-VKS-Q6 ngày 18 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Chí T về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy » theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Chí T khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi mua 10 viên thuốc lắc và 02 bịch ma túy khay với giá 4.700.000 đồng để dành sử dụng. Sau khi cùng bạn bè sử hết 02 viên thuốc lắc và 01 bịch ma túy khay thì bị Công an phát hiện bắt giữ như bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Chí T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử

Phạt bị cáo Nguyễn Chí T từ 03 năm đến 04 năm tù về tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy » theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe gắn máy biển số 59K2-174.70, số khung MLHJF3507G5356341số máy JF350E-0356341 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại CLICK125I, sơn màu Trắng  Đen Đỏ,  dung tích 124; 01 chiếc  điện thoại  di động vỏ màu vàng (có ghi chữ Vertu), số Imei 1: 353800810662177, số Imei 2: 353800810662185.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói có chứa ma túy tổng hợp đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 370/2018, có chữ ký niêm phong lại của giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Võ Văn Thải; 01 cái bóp cầm tay; 01 sim điện thoại số seri: 840116105150568001 (số thuê bao 0932446933).

Trả lại bị cáo Nguyễn Chí T 01 máy tính bảng phía sau ghi chữ iPad, có seri DMPMFSUSF4YF và số tiền 500.000 đồng.

Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Chí T nhận thức được  hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Chí T tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Chí T đã cất giữ 3,0910 gam ma túy ở thể rắn (loại MDMA) để sử dụng, là phạm tội « Tàng trữ trái phép chất ma túy ». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Chí T không những đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Nguyễn Chí T có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là phạm tội nêu trên. xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi 

[3] Bị cáo Nguyễn Chí T ngày 28/6/2013, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy », chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý là tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được  quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Chí T là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và MDMA, Ketamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người  sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn nhận tội, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Nguyễn Chí T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, thu nhập không ổn định, đang sống cùng gia đình, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: Phương  tiện mà bị cáo Nguyễn Chí T dùng vào việc phạm  tội  là 01 chiếc xe gắn máy biển số 59K2-174.70, số khung MLHJF3507G5356341, số máy JF350E-0356341 (loại xe hai bánh từ 50- 175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại CLICK125I, sơn màu Trắng Đen Đỏ, dung tích 124; 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu vàng (có ghi chữ Vertu), số Imei 1: 353800810662177, số Imei 2: 353800810662185, Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước  theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói có chứa ma túy tổng hợp đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 370/2018, có chữ ký niêm phong lại của giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Võ Văn Thải; 01 cái bóp cầm tay; 01 sim điện thoại số seri: 840116105150568001 (số thuê bao 0932446933), là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 máy tính bảng phía sau có ghi chữ iPad, có seri DMPMFSUSF4YF và số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Chí T. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ chứng cứ xác định do bị cáo phạm  tội mà có hoặc bị cáo sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 48/PNK ngày 26 tháng 3 năm 2018 của Công an Quận 6 - BL61).

Đối với hành vi cất giữ 0,2217 gam Ketamine để sử dụng của bị cáo Nguyễn  Chí T.

Xét trọng lượng chất ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới  01 gam), do đó Hội đồng xét xử không xử lý bị cáo về hành vi này.

Đối với người thanh niên tên Hiệp mà bị cáo Nguyễn Chí T khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được  lai lịch. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết

[7] Bị cáo Nguyễn Chí T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí T (M) phạm tội: « Tàng trữ trái phép chất ma túy ».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điề 249; điểm  h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T (M) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2018.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59K2-174.70, số khung MLHJF3507G5356341, số máy JF350E-0356341 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại CLICK125I, sơn màu Trắng Đen Đỏ, dung tích 124; 01 (một) chiếc điện thoại di động vỏ màu vàng (có ghi chữ Vertu), số Imei 1: 353800810662177, số Imei 2: 353800810662185.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói có chứa ma túy tổng hợp đã được niêm phong, bên ngoài có ghi vụ số: 370/2018, có chữ ký niêm phong lại của giám định viên Võ Anh Tuấn và cán bộ điều tra Võ Văn Thải; 01 (một) cái bóp cầm tay; 01 (một) sim điện thoại s 0932446933). 

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại bị cáo Nguyễn Chí T 01 (một) máy tính bảng phía sau có ghi chữ iPad, có seri DMPMFSUSF4YF và 500.000 (năm trăm ngàn) đồng

- Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Chí T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường  hợp bản án, quyết định được  thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được  thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Chí T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HS-ST ngày 18/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về