Bản án 37/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN37/2018/HS-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (Tp.  B),  tỉnh  Lâm  Đồng  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số: 40/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử  số39/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2018 đối với các bị cáo:

1/ Họ và Tên: Nguyễn Năng D; Tên gọi khác: Cu Thuốc; sinh ngày: 20/7/1992; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT và cư trú: Thôn X, xã L, TP.B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn V và bà Bùi Thị G; vợ: Nguyễn Thị Bích D và có 01 người con; tiền án: Có 03 tiền án, tại bản án số 114/2012/HSST ngày 21/11/2012 Tòa án nhân dân TP.B xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tại bản án số 19/2014/HSST ngày 19/3/2014 Tòa án nhân dân TP.B xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tại bản án số 03/2017/HSST ngày 16/02/2017 Tòa án nhân dân TP.B xử phạt 09 tháng tù, đến nay chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 23/02/2018 đến nay; (có mặt).

2/ Họ và tên: Nguyễn Tú S; tên gọi khác: Cò; sinh ngày 21/7/1989; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT và cư trú: Thôn X, xã L, TP.B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Văn Ch và bà: Đỗ Thị Kim Ng; vợ, con: Chưa có; Tiền án: 01, bản án số 73/2010/HSST ngày 06/7/2010 của Tòa  án  nhân  dân  Quận  Y,  thành  phố  HCM  xử  phạt  07  năm  tù,  phạt  bổ  sung 10.000.000 đồng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích; tiền sự: 01, tại quyết định số 66/2016/QĐ/XPVPHC ngày 10/10/2016 Công an phường L, TP.B xử phạt 1.500.000 đồng, đã nộp phạt ngày 28/4/2017; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại; (có mặt).

- Người bị hại: Anh Nguyễn Trọng Ngh, sinh năm: 1988; nơi cư trú: Số Z, quốc lộ 20, xã Đ, TP.B, tỉnh Lâm Đồng; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Năng D là đối tượng có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Khoảng 07 giờ 40 phút ngày 28/11/2017, D điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave (không rõ biển số) chở Nguyễn Tú S đi từ xã L, TP.B đến trung tâm y tế huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng mục đích lấy thuốc điều trị cai nghiện ma tuý. Khi đi qua tiệm sửa xe của anh Nguyễn Trọng Ngh, địa chỉ số Z, Quốc Lộ 20, thôn V, xã Đ, TP.B, D thấy không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. D dừng xe, đi bộ vào trong tiệm sửa xe lấy trộm 01 máy khoan để bàn nhãn hiệu Sheng Fong 5 – speed của anh Ngh mang ra ngoài, nói S chạy xe mô tô, còn D ngồi sau ôm máy khoan tiếp tục đi đến trung tâm y tế huyện Đ. Trên đường đi gặp đối tượng C và Đ (không rõ nhân thân lai lịch) chạy xe mô tô vượt lên nói với D “hình như người ta biết bị mất trộm”.

Lúc này, S nói với D tìm chỗ cất giấu máy khoan để tránh bị phát hiện. Nghe vậy, D đồng ý. S mang máy khoan giấu ở bụi cỏ ven đường gần trường Trung học cơ sở H thuộc xã H, huyện Đ rồi cả hai đi đến trung tâm y tế huyện Đ lấy thuốc cai nghiện ma tuý. Sau đó, S và D quay lại vị trí cất giấu máy khoan nhưng tìm không thấy. Cơ quan điều tra Công an TP.B tiến hành truy tìm vật chứng nhưng không thu hồi được.

Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 105 ngày 28/12/2017 của Hội đồng định giá TP.B xác định: 01 chiếc máy khoan để bàn nhãn hiệu Sheng Fong 5 - speed trị giá 340.000đ (Ba trăm bốn mươi ngàn đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ việc xảy ra, gia đình Nguyễn Năng D đã bồi thường 01 máy khoan có đặc điểm tương tự cho anh Nguyễn Trọng Ngh nên anh Ngh không yêu cầu đề nghị gì khác, tự nguyện làm đơn xin bãi nại cho bị cáo D.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không có thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng. Các Bị cáo nhận thức hành vi trộm cắp của mình là vi phạm pháp luật.

Bản Cáo trạng số 44/CT-VKS.BL ngày 11 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân TP.B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Năng D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, Nguyễn Tú S về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào ngày 28/11/2017 tại xã Đ, thành phố B, Nguyễn Năng D có tiền án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 máy khoan để bàn nhãn hiệu Sheng Fong 5 - speed của anh Nguyễn Trọng Ngh với giá trị tài sản được xác định là 340.000đ (Ba trăm bốn mươi ngàn đồng); Nguyễn Tú S mặc dù biết rõ Nguyễn Năng D trộm cắp máy khoan của anh Ngh nhưng vẫn giúp D mang tài sản đi cất giấu. Hành vi của Nguyễn Năng D và Nguyễn Tú S là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân và gây mất trật tự trị an tại địa phương, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo D từ 12 đến 15 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo S từ 09 đến 12 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP.B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP.B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2]. Nguyễn Năng D đã có tiền án về hành vi chiếm đoạt, lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản lén lút trộm cắp 01 máy khoan để bàn nhãn hiệu Sheng Fong 5 - speed của anh Nguyễn Trọng Ngh trị giá 340.000đ (Ba trăm bốn mươi ngàn đồng); Nguyễn Tú S mặc dù biết rõ Nguyễn Năng D trộm cắp máy khoan của anh Ngh nhưng vẫn giúp D mang tài sản đi cất giấu. Hành vi của bị cáo D đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hành vi của bị cáo S có đủ yếu tố cấu thành tội “chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1Điều 250 Bộ luật  hình sự năm 1999.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo: Các bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm p, khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo D bồi thường toàn bộ thiệt hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo S phạm tội khi chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Xét về nhân thân: Bị cáo D có 03 án tích, cụ thể: Tại bản án số 114/2012/HSST ngày 21/11/2012 Tòa án nhân dân TP.B xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tại bản án số 19/2014/HSST ngày 19/3/2014 Tòa án nhân dân TP.B xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; tại bản án số 03/2017/HSST ngày 16/02/2017 Tòa án nhân dân TP.B xử phạt 09 tháng tù; bị cáo S có 01 tiền án: bản án số 73/2010/HSST ngày 06/7/2010 của Tòa án nhân dân Quận Z, thành phố HCM xử phạt 07 năm tù, phạt bổ sung 10.000.000 đồng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích; có 01  tiền  sự:  Tại  quyết  định  số  66/2016/QĐ/XPVPHC  ngày  10/10/2016  Công  an phường L, TP.B xử phạt 1.500.000 đồng, đã nộp phạt ngày 28/4/2017, không được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Xét thấy: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, không thể tự mình cải tạo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa.

 [3]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

 [4]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu  án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Năng D phạm tội“ Trộm cắp tài sản”, bị cáo Nguyễn Tú S phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”; 

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Nguyễn Năng D 15 (mười lăm) tháng tù, thờihạn tù tính từ ngày 23/02/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48;Điều 33;  Bộ luật  hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tú S 09 (chín) tháng tù thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo, riêng người bị hại có quyền kháng cáo trong thời han 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về