Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 21 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 112/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2018/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bé S, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Khu vực RC, phường TL, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn L, sinh năm 1971. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Khu vực RS, phường TL, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/4/2018 và quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bé S trình bày: Vào năm 1998, chị và anh Bùi Văn L, do quen biết và sau một thời gian tìm hiểu nên tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường TL vào ngày 30/12/2002.

Cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh L hạnh phúc từ khi cưới đến giữa năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không tin tưởng nhau về chuyện tiền bạc và thường bất hòa về tình cảm, đến tháng 10 năm 2010 khi cự cải nhau thì anh L hành hung đánh đập gây thương tích cho chị, do không thể tiếp tục chung sống nên anh chị đã ly thân từ đó đến nay.

Nay, tình cảm vợ chồng không còn nên chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Có 01 con tên Bùi Thị Mỹ A (nữ), sinh ngày 02/01/1997.

Mỹ A đã trưởng thành nên không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ đôi vơi bị đơn anh Bùi Văn L để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng anh L vắng mặt nhiều lần không rõ lý do. Do đó, vụ án không tiến hành hòa giải được nên Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử công khai.

Tại phiên tòa;

- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Bị đơn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Bé S và anh Bùi Văn L tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, có phát sinh mâu thuẫn nên chị S khởi kiện ly hôn. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Bùi Văn L đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Tuy nhiên, anh L vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử văng măt anh L theo quy định tại điểm b khoản 1 Điêu 227 và khoản 3 Điêu 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Chị S và anh L chung sống với nhau từ năm 1998 nhưng đến năm 2002 mới tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 10 năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn.

Tại phiên tòa hôm nay, chị S cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn la do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường bất hòa và không tin tưởng nhau về kinh tế và tình cảm gia đình nên thường xuyên cãi vã nhau, khi cự cải nhau thì anh L hành hung đánh đập gây thương tích cho chị nên anh chị đã đã ly thân từ tháng 10 năm 2010 đến nay. Trong thời gian ly thân, không ai quan tâm ai. Đến nay chị xác định đã không còn tình cảm với anh L nên chị yêu cầu ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc triệu tập anh L đúng trình tự luật định để tham gia tố tụng tại tòa và có ý kiến đối với hôn nhân của mình nhưng phía anh L nhiều lần vắng mặt không lý do. Điều đó cho thấy anh L đã không còn thiết tha gì đến cuộc hôn nhân này, mâu thuẫn giữa các đương sự đã thực sự trầm trọng và cho đến nay không có biện pháp khắc phục, mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Do vậy, yêu cầu ly hôn của chị S đối với anh L là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Có 01 người con tên Bùi Thị Mỹ A (nữ), sinh ngày 02/01/1997. Mỹ A đã trưởng thành nên không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng.

[5] Về tài sản chung: Về tài sản chung và nợ chung: Do chị Bé S không yêu cầu. Đồng thời anh L vắng mặt nên chưa xác định được phần tài sản chung và nợ chung của của chị S và anh L. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết phần tài sản chung và nợ chung của chị S và anh L.

Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị S phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều:

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227; Điều 228 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51; 56 và 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bé S. 

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bé S được ly hôn với anh Bùi Văn L.

- Về con chung: Có 01 con tên Bùi Thị Mỹ A (nữ), sinh ngày 02/01/1997 đã trưởng thành nên không đặt ra vấn đề nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bé S phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), chuyển tiền tạm ứng án phí chị S đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 001847 ngày 16/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn thành tiền án phí (công nhận chị S đã nộp xong).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về