Bản án 37/2017/DS-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 37/2017/DS-ST NGÀY 29/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 29 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 168/2017/DS-ST ngày 01 tháng 6 năm 2017 về việc “Tranh chấp về hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2017/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, sinh năm 1954; vắng mặt.

Địa chỉ cư trú: Số nhà 124, tổ 5, khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1985; địa chỉ cư trú: Khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 15/5/2017); có mặt.

2. Bị đơn: Bà Đặng Thị Kim C, sinh năm 1966; vắng mặt;

Ông Hoàng Minh X, sinh năm 1964; vắng mặt.

Cùng địa chỉ cư trú: Tổ 3, khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn  khởi kiện ngày 15/5/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị L và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày:

Bà Lê Thị L có tham gia góp hụi với bà Đặng Thị Kim C, do bà C làm chủ hụi cụ thể như sau:

- Dây hụi thứ 1: Ngày 19/10/2014 (âm lịch) bà C khui dây hụi 1.000.000 đồng, hụi bẻ cò, mỗi tháng khui 01 lần vào ngày 19 hàng tháng; hụi gồm có 24 phần, bà L góp 02 phần. Bà L đóng hụi đến kỳ thứ 22 thì bà hốt 01 phần được số tiền 22.500.000 đồng, bà C đã đăng tiền hốt hụi cho bà. Trong dây hụi này, đối với phần hụi bà L đã hốt, bà L còn nợ lại bà C 2 kỳ hụi chết X 1.000.000 đồng = 2.000.000 đồng. Còn lại 01 phần hụi sống, đến kỳ thứ 23 bà L bỏ hụi và hốt được số tiền 22.500.000 đồng, trừ tiền cò 400.000 đồng, còn lại 22.100.000 đồng nhưng bà C không đăng tiền hốt hụi cho bà L và bà C tuyên bố bể hụi. Như vây, bà C nợ bà L tiền không đăng hụi là 22.100.000 đồng, bà L nợ lại bà C 3 kỳ hụi chết số tiền 3.000.000 đồng (02 kỳ hụi chết của dây hụi bà L đã hốt trước là 2.000.000 đồng và 01 kỳ hụi chết của dây hụi bà L hốt sau mà bà C chưa đăng tiền hụi cho bà L), khấu trừ vào số tiền bà C nợ tiền bà L: 22.100.000 đồng - 3.000.000 đồng = 19.100.000 đồng. Trong dây hụi này bà C còn nợ lại bà L số tiền 19.100.000 đồng.

- Dây hụi thứ 2: Ngày 10/7/2015 (âm lịch) bà C khui dây hụi 1.000.000 đồng, hụi bẻ cò, mỗi tháng khui 01 kỳ vào ngày 10 hàng tháng; hụi gồm có 24 phần, bà L góp 02 phần. Trong dây hụi này bà L đóng được 14 kỳ hụi sống, đến kỳ hụi thứ 15 thì bà C tuyên bố bể hụi. Số tiền bà L thực đóng 14 kỳ hụi sống của cả 02 phần hụi là 15.590.000 đồng. Dây hụi này bà C còn nợ lại bà L số tiền 15.590.000 đồng.

- Dây hụi thứ 3: Ngày 25/8/2015 (âm lịch) bà C khui dây hụi 2.000.000 đồng, hụi bẻ cò, mỗi tháng khui 01 kỳ vào ngày 25 hàng tháng, hụi gồm có 20 phần, bà L góp 01 phần. Bà L đóng được 12 kỳ hụi sống, số tiền thực đóng là 13.200.000 đồng, đến kỳ thứ 13 bà C tuyên bố bể hụi. Dây hụi này bà C còn nợ lại bà L số tiền 13.200.000 đồng.

Dây hụi thứ 4: Ngày 19/01/2016 (âm lịch) bà C khui dây hụi 1.000.000 đồng, hụi bẻ cò, mỗi tháng khui 01 kỳ vào ngày 19 hàng tháng; hụi gồm 26 phần, bà L góp 01 phần. Bà L đóng hụi sống được 08 kỳ, số tiền thực đóng là 4.570.000 đồng, đến kỳ thứ 09 bà C tuyên bố bể hụi. Dây hụi này bà C còn nợ bà L số tiền 4.570.000 đồng.

Tổng cộng 04 dây hụi bà C nợ bà L 52.460.000 đồng, đến tháng 9/2016 bà C tuyên bố bể hụi, không còn khả năng thanh toán cho các hụi viên. Ngày 14/11/2016 bà C làm giấy cam kết trả nợ hụi cho bà L, mỗi tháng trả 1.000.000 đồng, sau đó bà C có trả cho bà L 1.000.000 đồng thì ngưng không trả tiền cho bà L như đã cam kết. Nay bà L yêu cầu bà C, ông X có trách nhiệm hoàn trả số tiền nợ hụi gốc 51.460.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất 0,75%/1 tháng từ ngày 14/11/2016 đến nay.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 12/6/2017 bị đơn bà Đặng Thị Kim C trình bày:

Bà thừa nhận bà Lê Thị L có tham gia góp 03 dây hụi do bà làm chủ, cụ thể:

- Dây hụi thứ 1: Khui ngày 19/10/2014, hụi 1.000.000 đồng, gồm 24 phần, mỗi tháng khui 01 kỳ, bà L góp 02 phần, đã hốt 01 phần, còn 01 phần chưa hốt. Bà L đã đóng được 21 kỳ hụi sống, bà không nhớ số tiền bà L thực đóng hụi cho bà. Trừ đi số tiền hụi chết bà L còn nợ bà trong dây hụi này thì bà còn nợ bà L số tiền 19.000.000 đồng.

- Dây hụi thứ 2: Khui ngày 25/8/2015, hụi 2.000.000 đồng,  gồm 20 phần, mỗi tháng khui 01 kỳ, bà L góp 01 phần, bà L đóng cho bà được12 kỳ hụi sống (bà không nhớ rõ số tiền hụi bà L thực đóng).

- Dây hụi thứ 3: Khui ngày 19/01/2016 (âm lịch), hụi 1.000.000 đồng, gồm 26 phần, mỗi tháng khui 01 kỳ, bà L góp 01 phần, bà L đóng cho bà được 07 kỳ hụi sống với số tiền thực đóng hụi sống là 4.460.000 đồng, đến kỳ thứ 08 dây hụi này ngưng khui.

Tất cả 03 dây hụi trên đều ngưng khui từ tháng 8/2016 (âm lịch) nguyên nhân do bà không có khả năng choàng tiền hụi cho các hụi viên đã hốt hụi nhưng không đóng tiền hụi chết cho bà. Đến ngày 14/11/2016 giữa bà và bà L có chốt lại số tiền hụi thì bà còn nợ bà L số tiền 52.400.000 đồng, sau đó bà có trả cho bà L được số tiền 1.000.000 đồng, hiện bà còn nợ lại bà L 51.400.000 đồng.

Nay bà đồng ý trả cho bà L số tiền 51.400.00 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật. Đây là nợ riêng của bà với bà L, ông Hoàng Minh X chồng bà không liên quan. Việc góp hụi với bà L chỉ có mình bà, ông X chồng bà không biết. Mục đích bà góp hụi để có thêm tiền thu nhập và bà sử dụng vào mục đích riêng của bà, còn chi phí chi tiêu, sinh hoạt thiết yếu trong gia đình bà do bà và ông X cùng lo. Bà đồng ý chịu trách nhiệm trả cho bà L số tiền 51.400.00 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/7/2017 bị đơn ông Hoàng Minh X trình bày:

Ông và bà C chung sống vợ chồng với nhau từ năm 1990, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Hiện ông và bà C đang sống chung nhà nhưng chi tiêu, sinh hoạt riêng. Việc chơi hụi giữa bà L với bà C ông không biết, bà C gây nợ thì bà C tự chịu trách nhiệm trả nợ, ông không đồng ý cùng bà C trả nợ cho bà L.

Tại phiên tòa:

- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu bà C, ông X trả số tiền nợ hụi là 51.400.000 đồng và tính lãi từ ngày 14/11/2016 đến ngày 29/8/2017 theo mức lãi suất 0,75%/1 tháng.

- Bị đơn bà Đặng Thị Kim C và ông Hoàng Minh X có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành tốt Nội qui phiên tòa.

+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L. Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc bà C và ông X cùng trả nợ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ông Hoàng Minh X và bà Đặng Thị Kim C đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà C, ông X.

[2] Về pháp luật áp dụng: Giao dịch về hợp đồng góp hụi giữa bà Lê Thị L và bà Đặng Thị Kim C được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực, căn cứ vào Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L yêu cầu bà Đặng Thị Kim C, ông Hoàng Minh X trả số tiền nợ hụi 51.400.000 đồng và yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất 0,75%/1 tháng từ ngày 14/11/2016 đến nay, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bà L và bà C đều thừa nhận bà L có góp hụi với bà C, do bà C làm chủ hụi. Tuy giữa bà L và bà C trình bày không thống nhất với nhau về các dây hụi mà bà L góp do bà C làm chủ hụi, nhưng giữa bà L và bà C thống nhất trình bày: Ngày 14/11/2016 giữa bà C và người đại diện theo ủy quyền của bà L là bà T có tính toán với nhau về số tiền nợ hụi, bà C còn nợ bà L số tiền 52.400.000 đồng, bà C có viết giấy cam kết trả nợ. Sau đó bà C đã trả cho bà L 1.000.000 đồng, hiện nay bà C còn nợ lại bà L số tiền hụi là 51.400.000 đồng.

Đối với yêu cầu tính tiền lãi của bà L áp dụng mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian giao chậm tại thời điểm giao các phần hụi (9%/ năm tức 0,75%/ tháng), tính từ ngày 14/11/2016 (tức từ ngày bà C viết giấy cam kết trả nợ) đến ngày 29/8/2017 là: 09 tháng 15 ngày X 51.400.000 đồng  0,75 %/1 tháng = 3.662.000 đồng tiền lãi.

Xét thấy yêu cầu của bà L về số tiền nợ hụi gốc và tiền lãi là có căn cứ theo quy định tại Điều 497 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 29 chương IV Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ.

Bà C cho rằng số tiền nợ hụi giữa bà với bà L là nợ riêng của bà, ông X chồng bà không biết việc bà góp hụi với bà L, không liên quan đến ông X, nên bà đồng ý chịu trách nhiệm trả tiền nợ hụi cho bà L số tiền 51.400.00 đồng và tiền lãi theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình xác minh thu thập chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện trong thời gian bà L tham gia giao dịch góp hụi do bà C làm làm chủ hụi, bà C, ông X đang sống chung, cùng sinh hoạt chung và bà C thừa nhận mục đích bà C mở các dây hụi làm chủ hụi để tăng thêm thu nhập, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu một phần của gia đình. Do đó căn cứ Điều 298, Điều 497 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 29 Nghị định số 144/2006-ND-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ cần buộc bà C cùng ông X có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà L số tiền 51.400.000 đồng và 3.662.000 đồng tiền lãi, tổng cộng 55.062.000 đồng.

[4] Về án phí: Bà Đặng Thị Kim C và ông Hoàng Minh X phải chịu 2.753.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 298, Điều 479 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 29 Nghị định số 144/2006-NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Lê Thị L. Buộc bà Đặng Thị Kim C và ông Hoàng Minh X trả cho bà Lê Thị L 51.400.000 đồng tiền nợ hụi và 3.662.000 đồng tiền lãi, tổng cộng 55.062.000 (năm mươi lăm triệu không trăm sáu mươi hai nghìn) đồng.

2. Về án phí:

- Bà Đặng Thị Kim C và ông Hoàng Minh X phải chịu 2.753.000 đồng (hai triệu bảy trăm năm mươi ba nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Bà Lê Thị L không phải chịu án phí sơ thẩm dân sự. Hoàn trả cho bà Lê Thị L 1.311.000 đồng (một triệu ba trăm mười một nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004192 ngày 01/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

3. Kể từ ngày bà Lê Thị L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Đặng Thị Kim C và ông Hoàng Minh X không chịu trả số tiền trên thì hàng tháng bà Đặng Thị Kim C và ông Hoàng Minh X còn phải trả cho bà Lê Thị L số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

5. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

345
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2017/DS-ST ngày 29/08/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:37/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về