Bản án 371/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 371/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 358/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 355/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Đức S, sinh năm 1991 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn K S, phường M L, thị xã Ngh S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Đức Nh (đã chết) và bà Lê Thị D, sinh năm 1958; bị cáo có 02 anh ruột, lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 1989; tiền án: Ngày 02/11/2015, bị Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 162/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/7/2016, chưa đóng án phí; tiền sự: Ngày 21/7/2020, bị Chủ tịch UBND phường H B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn 03 tháng theo Quyết định số 636/QĐ-UBND, chưa chấp hành xong quyết định; Nhân thân:

- Ngày 10/9/2010, bị Tòa án nhân dân quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội Cướp giật tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 196/2010/HSST.

- Ngày 20/9/2013, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự phúc thẩm số 657/2013/HSPT:

- Ngày 30/5/2017, bị Tòa án nhân dân quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 21 tháng, theo Quyết định số 187/2017/QĐ-TA, chấp hành xong quyết định ngày 01/12/2018.

Bị cáo tại ngoại; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Quang Ch, sinh năm 1974; thường trú: Số 26/38 đường Đ Th K, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương:

vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Nhã Thanh Nhân M, sinh năm 1992; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Đô Kh, sinh năm 1992; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 27/3/2020, Lê Đức S đón xe Bus từ phường H B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh đến cầu vượt S Th sau đó đi bộ đến cửa hàng tạp hóa “Ch H” địa chỉ số 26/38 đường Đ Th K, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương do anh Nguyễn Quang Ch làm chủ, khi vào trong tiệm tạp hóa S quan sát không có người nên lén lút lấy trộm 01 hộp sữa Ensure 850g cất vào bên trong túi quần lửng của S, rồi lấy 01 bịch bột giặt ô mô với giá 16.000 đồng đi ra quầy tính tiền, trả xong S đi ra khỏi tiệm tạp hóa thì bị anh Nguyễn Quang Ch phát hiện truy hô, lúc này anh Phạm Nhã Thành Nhân M cùng anh Nguyễn Đô Kh là nhân viên của tiệm tạp hóa nghe tiếng truy hô nên chạy ra giữ lại, phát hiện trong túi quần Sỹ có 01 hộp sữa Ensuer 850g nên bắt giữ giao cho công an phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương sau đó chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương thụ lý giải quyết.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) hộp sữa Ensure 850g.

Theo Kết luận định giá tài sản số: 95/BB.ĐG ngày 1/6/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 (một) hộp sữa Ensure 850g có trị giá 700.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 95/BB.ĐG ngày 1/6/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Tại Cáo trạng số: 388/CT-VKS ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Lê Đức S về tội “Trộm cắp tài sản” điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Đức S về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Đức S từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) hộp sữa Ensure 850g, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Quang Ch, bị hại Ch không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Đối với bị cáo Lê Đức S có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo; bị hại; người làm chứng; biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 27/3/2020, tại cửa hàng tạp hóa “Ch H” địa chỉ số 26/38 đường Đ Th K, khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương do anh Nguyễn Quang Ch làm chủ. Lê Đức S có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) hộp sữa Ensure 850g có trị giá 700.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Lê Đức S đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại có giá trị 700.000 đồng, tuy số tiền chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng do bị cáo có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 388/CT-VKS ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Lê Đức S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là ít trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời là người nghiện ma túy và người không có nghề nghiệp nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu, có tiền án về tội Trộm cắp tài sản đồng thời bị cáo là người nghiện ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo làm ảnh hưởng xấu tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung. Đồng thời để đảm bảo cho việc thi hành án nên cần áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 101/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 17 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Lê Đức S.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) hộp sữa Ensure 850g, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Quang Ch, bị hại Ch không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về tội danh, mức hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Đức S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Đức S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

Tiếp tục áp dụng Lệnh đi khỏi nơi cư trú số: 101/2020/HSST-LCKNCT ngày 17 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố D A, tỉnh Bình Dương, kể từ khi tuyên án đến khi Lê Đức S đi chấp hành án phạt tù.

2. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Đức S phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 Bị cáo và bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ../.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 371/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:371/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về