Bản án 36a/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

 BẢN ÁN 36A/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 06 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 04 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 06 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn L, sinh ngày 09/10/1998 tại: Xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông;trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C, sinh năm 1973 và bà Bùi Thị D, sinh năm 1974; bị cáo có vợ là Bùi Thị Minh N, sinh năm 2000 và có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2020 đến nay; được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

2. Bùi Văn T, sinh ngày 01/04/1999 tại: Xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn S, sinh năm 1976 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2020 đến nay; được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn L: Ông Vũ Đình Hùng – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T: Ông Lưu Văn Thường – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Bị hại: Bùi Quốc A, sinh năm 1987. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Ông Bùi Văn Mạnh – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Bùi Thị D, sinh năm 1974. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

Người làm chứng:

+ Bùi Tuấn P, sinh năm 2001. Nơi cư trú: Xóm T, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bùi Văn C, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bùi Tuấn A, sinh năm 2003. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bùi Văn K, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

+ Bùi Minh H, sinh năm 2002. Nơi cư trú: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 11/11/2020, Bùi Văn L, Bùi Văn T và Bùi Tuấn P, sinh năm 2001, trú tại: Xóm T, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình cùng đi đến quán ốc của anh Bùi Minh H, sinh năm 2002 tại xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình để ăn ốc uống rượu. Tại đây L, T, P cùng ngồi ăn ốc uống rượu với Bùi Minh H, Bùi Văn T cùng trú tại: Xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình.

Đến khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày anh Bùi Quốc A, sinh năm 1987 và anh Bùi Văn C, sinh năm 1991, cùng trú tại: Xóm M, xã T đến quán để ăn ốc uống rượu và ngồi bàn bên cạnh cách bàn của nhóm L và T khoảng 3 mét. Một lúc sau anh C có sang bàn của L và T để uống rượu giao lưu rồi trở về bàn của mình. Sau đó L đến bàn của C và A để uống rượu giao lưu thì xảy ra mâu thuẫn với Bùi Quốc A; A có lời nói thách thức L nên L dùng tay phải đánh vào vùng mặt anh A 01 phát, thấy vậy T ném chai bia xuống nền đất và đi đến dùng tay trái đấm 01 phát vào vùng mặt anh A thì được anh P và anh T ngăn lại nhưng T vẫn cố vùng vẫy thoát ra để tiếp tục đánh anh A, thì được Bùi Tuấn A, sinh năm 2003, trú tại: Xóm M, xã T ngăn lại nên T dùng tay trái đấm Bùi Tuấn A 01 phát, Bùi Tuấn A cũng đấm lại T 01 phát. Sau đó L dùng 01 con dao bằng kim loại (là hung khí nguy hiểm) dài 32,5 cm lao vào chém 03 phát vào vùng đầu, tay phải, sườn phải của anh A. Lúc này anh A chạy sang nhà ông Bùi Văn K gần đó còn P dùng xe mô tô chở L và T bỏ đi. Đến ngày 12/11/2020 nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên L và T đã đến cơ quan Công an đầu thú.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 239/TgT ngày 18/11/2020 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Hòa Bình kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Bùi Quốc A là 19% (mười chín phần trăm)”.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- 01 con dao nhọn dài 32,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen mũi nhọn dài 20cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen, cuối chuôi dao có đầu kim loại sáng màu, tổng chiều dài chuôi dao 12,5cm và 01 chiếc bao bằng vải cứng màu đen có tổng chiều dài 33,5cm được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn chờ xử lý.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 28N1 – 014.00, xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị can và không ảnh hưởng đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

* Về phần trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, Bùi Văn L đã tác động cùng gia đình bồi thường cho bị hại Bùi Quốc A số tiền là 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng). Anh A không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường khoản gì thêm.

Đối với Bùi Tuấn A trong quá trình căn ngăn Bùi Văn T và bị T dùng tay đấm 01 phát nhưng không để lại thương tích, bản thân Bùi Tuấn A cũng không có yêu cầu đề nghị gì nên không đề cập xử lý.

Quá trình giải quyết vụ án các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn thu thập được.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 08 tháng 05 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Thực hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Lạc Sơn, sau khi xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 134 Bộ luật hình sự tuyên bố các bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” ; đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn L từ 27 - 33 tháng tù.

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 18 - 21 tháng tù và giải quyết các vấn đề khác theo quy định.

Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý Vũ Đình Hùng bào chữa cho bị cáo Bùi Văn L: Đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo theo hướng cho bị cáo Bùi Văn Lâm được hưởng mức án từ 20 – 24 tháng tù.

Quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý Lưu Văn Thường bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T: Không đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã truy tố; hành vi của bị cáo Bùi Văn T không gây thương tích cho Bùi Quốc A; thương tích của bị hại hoàn toàn do bị cáo L gây nên, do vậy hành vi của T không đồng phạm với bị cáo Bùi Văn L mà là hành vi độc lập, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tuyên bố bị cáo Bùi Văn T không phạm tội “ Cố ý gây thương tích” và đề nghị trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Các bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn T đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố, nhất trí với quan điểm của người bào chữa, không có ý kiến bổ sung và xin giảm nhẹ hình phạt. Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại ông Bùi Văn Mạnh và bị hại Bùi Quốc A nhất trí với đường lối xử lý của Viện kiểm sát, không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường khoản gì thêm, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hay yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Lạc Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy lời khai nhận của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác như: Đơn xin đầu thú của các bị cáo; Biên bản khám nghiệm và bản ảnh hiện trường ngày 12/11/2020; biên bản xem xét dấu vết trên thân thể Bùi Quốc A ngày 13/11/2020; Bệnh án và bản kết quả giám định thương tích số 239/TgT ngày 18/11/2020 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Hòa Bình; lời khai của bị hại;

người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở khẳng định: Tối ngày 11/11/2020 tại xóm M, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình, Bùi Văn L đã có hành vi dùng tay và dao (là hung khí nguy hiểm) chém, Bùi Văn T đã có hành vi dùng tay đánh anh Bùi Quốc A gây thương tích dẫn tới hậu quả anh Bùi Quốc A bị tổn hại 19% sức khỏe so với tình trạng sức khỏe trước khi bị xâm hại. Vì vậy, việc các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[3]Hành vi nêu trên của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền được bảo hộ về sức khoẻ của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức việc làm của mình là sai trái, nguy hiểm cho xã hội. Song vì coi thường pháp luật nên các bị cáo đã thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác. Lỗi của các bị cáo trong vụ án là lỗi cố ý trực tiếp, do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.

[4] Xét tính chất của vụ án, đây là vụ án đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích” có tính chất giản đơn. Tuy nhiên, để làm cơ sở cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hình phạt đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử đã phân tích và xét thấy: Bị cáo Bùi Văn L là người trực tiếp dùng tay đấm và dùng dao chém vào vùng đầu, tay phải, sườn phải của bị hại Bùi Quốc A, thương tích của bị hại chủ yếu do hành vi dùng dao chém của bị cáo gây nên, do vậy bị cáo L là người thực hành, giữ vai trò chính. Bị cáo Bùi Văn T tiếp nhận ý chí của bị cáo Bùi Văn L nên đã có hành vi dùng tay đấm bị hại Bùi Quốc A, hành vi của bị cáo tuy không gây thương tích cho bị hại nhưng đã tạo động lực, giúp sức về mặt tinh thần để bị cáo L dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại. Do đó trong vụ án này bị cáo Bùi Văn T đồng phạm với vai trò người giúp sức, chịu trách nhiệm thứ yếu sau bị cáo Bùi Văn L.

[5] Xét nguyên nhân, điều kiện phạm tội cho thấy: Do các bị cáo tuổi đời còn trẻ, suy nghĩ nông nổi, không biết cách hành xử phù hợp nên dẫn tới hành vi gây thương tích cho người khác. Tuy nhiên việc người bị hại có lời nói qua lại thách thức bị cáo Bùi Văn L cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các bị cáo, do vậy trong vụ án này người bị hại cũng có một phần lỗi.

[6] Xét nhân thân: Trước khi phạm tội các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các bị cáo đều có người thân là người có công với cách mạng, chủ động ra đầu thú. Mặt khác bị hại cũng có đơn và ý kiến giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại các điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo Bùi Văn L trong quá trình điều tra đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả nên có thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[8] Hội đồng xét xử xét thấy quan điểm bào chữa cho bị cáo Bùi Văn L và bảo vệ cho bị hại Bùi Quốc A của các Trợ giúp viên pháp lý Vũ Đình Hùng và Bùi Văn Mạnh tại phiên tòa là có căn cứ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần quan điểm bào chữa sẽ xem xét trong quá trình lượng hình. Đối với quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý Lưu Văn Thường bào chữa cho bị cáo Bùi Văn T, xét thấy không có cơ sở chấp nhận bởi lẽ trong vụ án này hành vi của bị cáo Bùi Văn T là sự tiếp nhận ý chí từ bị cáo L, cụ thể: Về mặt thời gian và địa điểm hành vi phạm tội của bị cáo T xảy ra ngay tức khắc sau khi bị cáo L có hành vi dùng tay đấm bị hại Bùi Quốc A và cùng một địa điểm là quán ốc của anh Bùi Minh H tại xóm M , xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Hành vi của các bị cáo tuy không có sự bàn bạc, phân công trước, nhưng giữa các bị cáo có mối quan hệ bạn bè thân thiết, bị cáo T mong muốn hỗ trợ bị cáo L trong việc gây thương tích cho người bị hại để tránh việc người bị hại tấn công lại các bị cáo (trên thực tế bị cáo T có hành vi quyết liệt khi dùng tay đấm Bùi Quốc A, khi có người căn ngăn đã đấm người can ngăn để tiếp tục tấn công bị hại), giữa hành vi của các bị cáo có mối quan hệ biện chứng, thống nhất, hành vi dùng tay đấm bị hại của bị cáo L có tác động tới ý thức chủ quan đối với bị cáo T dẫn tới liền sau đó bị cáo cũng xông vào tấn công người bị hại. Mặt khác hành vi của bị cáo T là động lực củng cố niềm tin cho bị cáo L thực hiện hành vi dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại Bùi Quốc A. Đối với bị cáo L biết được bị cáo T đang có hành vi vi phạm pháp luật để bênh vực, bảo vệ mình nên có ý thức để mặc cho T tham gia thực hiện tội phạm mặc dù không bàn bạc, trao đổi trước. Do đó về mặt lý trí và ý chí các bị cáo đều nhận thức được tính chất nguy hiểm do hành vi của mình gây ra, cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội và cùng mong muốn cho gây thương tích cho bị hại, thỏa mãn cấu thành đồng phạm.

[9] Cân nhắc tính chất lỗi, nguyên nhân, điều kiện và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi mà các bị cáo đã thực hiện. Do đó, việc cách ly các bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như đáp ứng mục đích đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn là cần thiết.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Xét thấy, việc thỏa thuận bồi thường của các bên là phù hợp với quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường của các bên. Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường khoản gì thêm, do đó HĐXX không đề cập trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo.

[11] Về vật chứng vụ án: Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy đối với 01 con dao nhọn tổng chiều dài 32,5cm và 01 chiếc bao bằng vải cứng màu đen có tổng chiều dài 33,5cm [12] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn T phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

2.Về hình phạt:

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn L: 25 (hai mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 12/11/2020.

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn T: 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 12/11/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của các bên và không đề cập vấn đề trách nhiệm dân sự của vụ án.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu để xuất huỷ đối với: 01 con dao nhọn tổng chiều dài 32,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen mũi nhọn dài 20cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen, cuối chuôi dao có đầu kim loại sáng màu, tổng chiều dài chuôi dao 12,5cm và 01 chiếc bao bằng vải cứng màu đen có tổng chiều dài 33,5cm (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện Lạc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn ngày 21/06/2021).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Bùi Văn L, Bùi Văn T mỗi người phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 36a/2021/HS-ST ngày 22/06/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:36a/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về