Bản án 366/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 366/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 419/2019/TLST – HS, ngày 16 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 409/2019/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: PHẠM VĂN H, sinh năm: 1993; HKTT: Làng Beo, xã Mỹ Tân, huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa; Chỗ ở: Không có nơi ở cố định; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Phạm Văn H (Sinh năm:1957) và bà Phạm Thị H (Sinh năm: 1957); Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ 4;Tiền án tiền sự (Theo danh chỉ bản số: 693, lập ngày: 26/08/2019 tại Công an quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội): Không. Giam cứu: 24/08/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 của Công an thủ đô Hà Nội - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiếm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội truy tố:

Khoảng 13h00 phút ngày 24/8/2019, tại khu vực trước cổng số 16 ngõ 4, P.G, Hoàng Mai, Hà Nội, tổ công tác CAP G kiểm tra đối tượng có dấu hiệu nghi vấn là Phạm Văn H. Quá trình kiểm tra, thu giữ tại lòng bàn tay phải của Phạm Văn H có 01 gói giấy màu trắng, kích thước (01x01)cm bên trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, H khai nhận là ma túy Heroine, H mua về để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác kiểm tra thu giữ của H số tiền: 150.000 đồng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật và đưa H về trụ sở để làm rõ. Ngày 24/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận H đã ra Quyết định số 688 trưng cầu giám định đối với 01 gói chứa chất bột màu trắng, thu giữ của H. Bản kết luận giám định số 5513/KLGĐ-PC09 ngày 01/09/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,130 gam.Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận H, Phạm Văn H khai nhận: Khoảng 12h30’ ngày 24/8/2019 Phạm Văn H đi bộ một mình đến khu vực bến xe G tìm mua ma túy để sử dụng do bản thân là người nghiện ma túy. Khi đi đến cổng xe khách ra của bến xe G, Hoàng gặp 01 người nam thanh niên không quen biết khoảng 35 tuổi, cao 1,7m da trắng dáng người nghiện như H nên đã hỏi mua ma túy của anh ta. Anh ta đồng ý bán cho H 01 gói ma túy màu trắng kích thước 01x01 cm chứa Heroine với giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Biết đó là ma túy nên mua xong H cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải đi bộ tìm nơi để sử dụng. Khi đi tới trước nhà số 16 ngõ 4 thì H bị công an phường Gt kiểm tra, phát hiện trong lòng bàn tay phải của H cầm 01 gói ma túy. H đã giao nộp gói ma túy cho cơ quan công an. Phạm Văn H khai nhận mua ma túy để sử dụng. Lời khai của Phạm Văn Hphù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Phạm Văn H đến địa điểm mua ma túy, kết quả H đã chỉ ra vị trí mua ma túy tại cổng ra xe khách của bến xe– phường G – Hoàng Mai – Hà Nội nhưng không xác định được danh tính nam thanh niên đã bán ma túy cho H nên không có căn cứ để xử lý. Tiến hành xét nghiệm đối với Phạm Văn H, kết quả: Bị cáo H dương tính với ma túy.Tại bản cáo trạng số: 389/CT-VKS-HM, ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội, truy tố bị cáo Phạm Văn H về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2] Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Văn H đã đề nghị được sử dụng tiếng nói chữ viết là tiếng Việt và chữ Quốc ngữ tại phiên tòa, vì bị cáo đã được học phổ thông đến trình độ 9/12, mà không đề nghị dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc Mường. Vì vậy, không cần phải mời phiên dịch tiếng Mường đến phiên tòa ngày hôm nay. Bị cáo Phạm Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Bị cáo khẳng định bị cáo là người nghiện ma túy. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo H như bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: bị cáo Phạm Văn H từ 12 đến 16 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; Không áp dụng hình phạt bổ sung; Tịch thu tiêu hủy khối lượng 0,130 gam HEROINE. Phần tranh luận tại phiên tòa, bị cáo H thừa nhận Kiểm sát viên luận tội và kết luận bị cáo phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, nên không tranh luận; bị cáo chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về hướng giải quyết toàn bộ vụ án.

[3] Lời nói sau cùng của bị cáo: “Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và có tội. Bị cáo rất ăn năn, hối cải và luôn thành khẩn khai báo, do đó bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm được trở về gia đình và hòa nhập xã hội”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân quận H và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, không có khiếu nại, tố cáo.Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Xét hành vi nguy hiểm của bị cáo bị truy tố: Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều - Công an quận H; Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thủ đô Hà Nội, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 24/08/2019, tại quận Hoàng Mai, Hà Nội, Phạm Văn H đã thành niên, đã đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi tàng trữ trái phép 0,130 gam HEROINE với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều luật quy định: “ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H, thủ đô Hà Nội truy tố bị cáo H về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, hình phạt chính, hình phạt bổ sung: Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểmlớn cho xã hội. Xác định hành vi nguy hiểm của bị cáo là tội phạm nghiêm trọng. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời có thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác; gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự xã hội. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự và áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo là người dân tộc Mường, nên cũng cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án như đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát cũng là có đủ tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội. Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lớn, nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[4] Về áp dụng Biện pháp tư pháp: Khi bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy, Công an thu giữ của bị cáo khối lượng: 0,130 gam HEROINE, căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, thấy cần: Tịch thu tiêu hủy 0,130 gam HEROINE. Đối với số tiền 150.000 đồng đã thu giữ của bị cáo H, xét không liên quan đến vụ án, nên cần căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 để: Trả lại cho bị cáo H số tiền 150.000 đồng, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo H.

[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Các vấn đề khác: Đối với người bán ma túy cho bị cáo H, Cơ quan điều tra đã dẫn giải H đến chỗ mua ma túy, nhưng không xác định được người bán, nên không có căn cứ để xử lý người đã bán ma túy cho bị cáo H. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ vào Điều 106, 136, 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn H: 16 (Mười sáu) tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày: 24/08/2019.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Biện pháp tư pháp:

3.1.Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao niêm phong bên trong có 0,130 gam HEROINE. Vật chứng nêu trên, hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, theo Quyết định chuyển vật chứng số 312/2019/QĐ-VKS-HM, ngày 13/11/2019.

3.2. Trả lại cho bị cáo H số tiền 150.000 đồng, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo H. Số tiền nêu trên, hiện đang lưu giữ tại tài khoản 3949 của Chi cụ thi hành án dân sự quận Hoàng Mai tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, thủ đô Hà Nội.

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn H có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 366/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:366/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về