Bản án 364/2019/HNGĐ-ST ngày 05/07/2019 về ly hôn giữa chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 364/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ TRẦN THỊ THU A VÀ ANH NGUYỄN XUÂN B

Ngày 05 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 241/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thu A, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số nhà xxx đường T, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân B, sinh năm 1970; nơi cư trú: Số nhà xx đường H, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nộp ngày 08-5-2019, bản tự khai ngày 13-5-2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị Thu A trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Xuân B sau thời gian tìm hiểu đã tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường N - thành phố N vào ngày 20-11-2013 trên cơ sở tự nguyện. Từ khi bắt đầu chung sống vợ chồng chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn trầm trọng từ khoảng tháng 10-2014 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau dẫn đến bất đồng quan điểm sống, anh B chơi bời, không tu chí làm ăn, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn; có những lúc anh B không kìm chế được đã đánh chị. Vợ chồng chị đã nhiều lần nói chuyện với nhau nhưng anh B không thay đổi, vợ chồng chị sống ly thân từ tháng 3-2019 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị đề nghị Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị V, sinh ngày 14-12-2013. Nếu ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị tự nguyện không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn.

- Về chia tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 18-6-2019 và tại phiên tòa, bị đơn là anh Nguyễn Xuân B trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị A trình bày. Anh trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẫn lớn. Thời gian gần đây vợ chồng có xảy ra cãi nhau do bất đồng quan điểm trong việc xin học cho con. Sau khi cãi nhau chị A đã về nhà bố mẹ đẻ chị A sống từ khoảng 3 tháng nay. Nay chị A đề nghị ly hôn, quan điểm của anh không đồng ý ly hôn vì muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con chung.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Nguyễn Thị V, sinh ngày 14-12-2013. Nếu ly hôn anh đồng ý để chị A được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu V. Về cấp dưỡng nuôi con anh nhất trí quan điểm của chị A: Anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản thu thập chứng cứ về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, đại diện Tổ dân phố nơi anh Nguyễn Xuân B cư trú cung cấp:

Anh Nguyễn Xuân B có vợ là chị Trần Thị Thu A. Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Nguyễn Thị V, sinh năm 2013. Địa phương không nắm được cụ thể nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng của chị A và anh B. Khoảng 3 tháng gần đây chị A chuyển về nhà mẹ đẻ sinh sống. Đại diện tổ dân phố đề nghị Toà án giải quyết về quan hệ hôn nhân và con chung của chị A và anh B theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký phiên toà trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án: Đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, chị A và anh B đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B; giao cháu Nguyễn Thị V, sinh ngày 14-12-2013 cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị A không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn. Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân:

Hôn nhân giữa chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, chị A và anh B xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt hàng ngày dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Từ tháng 3-2019 đến nay vợ chồng anh chị đã sống ly thân. Xét hôn nhân của chị A và anh B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị A, xử cho chị A và anh B ly hôn theo Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2]. Về nuôi con chung:

Chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B có một con chung là cháu Nguyễn Thị V, (giới tính: Nữ), sinh ngày 14-12-2013. Chị A và anh B thống nhất thỏa thuận: Sau khi ly hôn chị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị V; anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét sự thỏa thuận về nuôi con chung của chị A và anh B là tự nguyện, không vi phạm đạo đức, phù hợp với quy định của pháp luật nên được ghi nhận.

[3]. Về chia tài sản:

Chị A và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị A là nguyên đơn trong vụ án nên phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B.

2. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B: Chị Trần Thị Thu A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thị V, (giới tính: Nữ), sinh ngày 14-12-2013. Anh Nguyễn Xuân B không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Nguyễn Xuân B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Thu A phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp tại biên lai số 0002226 ngày 08-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 364/2019/HNGĐ-ST ngày 05/07/2019 về ly hôn giữa chị Trần Thị Thu A và anh Nguyễn Xuân B

Số hiệu:364/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về