Bản án 36/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 36/2021/HSST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn Đ - Sinh năm 2002; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: bản P, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 7/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Tòng Văn T, con bà Hoàng Thị P; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 20/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ 05/8/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 30 phút ngày 04/8/2020 tổ công tác Công an xã Mường Hung, huyện Sông Mã phối hợp với đội Cảnh sát hình sự Công an huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Cát, xã Mường Hung, huyện Sông Mã phát hiện một thanh niên đang điều khiển xe mô tô theo hướng từ bản Cát, xã Mường Hung đi Quốc lộ 4G có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy. Tổ công tác đã ra tín hiệu yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính, qua kiểm tra người điều khiển xe mô tô khai nhận là Tòng Văn Đ, trú tại bản P, xã C, huyện M, Sơn La vừa đến bản Huổi Hin, xã Mường Hung mua ma túy về sử dụng dần, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra phát hiện tại túi quần của Đ có 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 02 túi nilon màu xanh có tổng cộng 390 viên nén hình tròn màu hồng (Đ khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ niêm phong vật chứng; ngoài ra còn tạm giữ của Đ 01 điện thoại di động, 01 xe mô tô.

Ngày 05/8/2020 tại Công an huyện Sông Mã, tiến hành mở niêm phong cân tịnh khối lượng, trích mẫu gửi giám định và niêm phong vật chứng. Kết quả cân tịnh 194 viên nén màu hồng trong gói nilon màu xanh thứ nhất có khối lượng 19,23gam, trích 05 viên có khối lượng 0,48 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu Đ1, vật chứng còn lại 189 viên nén có khối lượng 18,75 gam có ký hiệu L1. Cân tịnh 196 viên nén màu hồng trong gói nilon màu xanh thứ hai có khối lượng 19,40gam, trích 05 viên có khối lượng 0,48 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu Đ2, vật chứng còn lại gồm 191 viên nén có khối lượng 18,92 gam có ký hiệu L2.

Kết luận giám định số 1293 ngày 10/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận số viên nén đã thu giữ được của Đ, đã kết luận: " Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ1, Đ2 đều là ma túy; loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là Đ1 = 0,48gam, Đ2 = 0,48gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 38,63gam, loại Methamphetamine ".

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 01/8/2020 Đ từ nhà ở bản P, xã C huyện M, tỉnh Sơn La bắt xe buýt đến nhà người yêu là Lò Thị T ở bản S, xã C, thành phố S, tỉnh Sơn La chơi. Đến 06 giờ ngày 02/8/2020 Đ bắt xe buýt xuống thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn, Sơn La để làm thuê, khi đến cầu Dây Văng thuộc thành phố Sơn La, Đ nói chuyện với một người bạn tên Đ1 nhà ở xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La (là người cùng làm thuê lăn sơn), qua nói chuyện Đ1 đưa cho Đ số tiền 500.000đ để nhờ Đ đi mua Hồng phiến mang về cùng nhau sử dụng, Đ đồng ý cầm lấy tiền rồi xuống xe buýt tại đường rẽ vào cổng trường Đại học Tây Bắc, sau đó đến bản Dửn, phường Chiềng Ngần, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La vào một quán điện tử không nhớ tên để chơi Game. Tại đây Đ gặp một người bạn tên K (chỉ biết nhà trong huyện Sông Mã) đang ngồi chơi Game, qua nói chuyện biết K sử dụng ma túy nên Đ đưa cho K số tiền 500.000đ (là tiền của Đ1) để nhờ K đi mua hộ Hồng phiến thì K đồng ý cầm tiền rồi tiếp tục ngồi chơi Game. Đ ngồi chơi được khoảng 20 phút sau đứng dậy đi ra chỗ K để hỏi Hồng phiến thì K bảo không có, còn tiền K đã dùng mua thẻ Game, do K do là bạn cùng chơi Game nên Đ không đòi lại số tiền đã đưa cho K. Sau đó Đ đi bộ ra Quốc lộ 6 bắt xe buýt xuống thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn để làm thuê lăn sơn cho Tuấn (là chủ cai không rõ họ, địa chỉ cụ thể), tại đây Đ có nói với Đ về việc không mua được Hồng phiến và tiền đã bị bạn mua thẻ Game chơi điện tử hết nên Đoàn không đòi lại tiền. Đến khoảng 17 giờ ngày 02/8/2020, Đ lấy tiền công làm sơn trước đó được 3.500.000đ từ Tuấn, rồi bắt xe buýt về nhà bạn gái Lò Thị T (lúc này Đ có tổng số tiền 4.000.000đ), khoảng 20 giờ ngày 03/8/2020 T nghĩ Đ không có tiền chi tiêu cá nhân nên đã đưa cho Đ số tiền 100.000đ.

Đến 00 giờ ngày 04/8/2020, Đ mang theo số tiền 4.100.000đ đến quán điện tử ở khu vực bản Dửn, phường Chiềng Ngần, thành phố Sơn La để chơi Game. Khoảng 02 giờ cùng ngày K đến quán, qua nói chuyện K bảo quen một người đàn ông dân tộc Mông ở trong huyện Sông Mã bán Hồng phiến nên K cho Đ số điện thoại để liên hệ mua ma túy. Khoảng 06 giờ cùng ngày, Đ thanh toán tiền chơi Game, không chơi nữa, khi ra cửa quán Đ gặp Nguyễn Việt H trú tại tổ 6, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, do quen biết nên Đ hỏi mượn xe mô tô của H nói dối đi chơi thì được H đồng ý. Đ điều khiển xe một mình đi vào huyện Sông Mã mang theo số tiền 4.050.000đ mục đích tìm mua ma túy. Trên đường đi Đ mua nước uống và thuốc lá hết số tiền 50.000đ và có liên lạc qua điện thoại với người đàn ông dân tộc Mông mà K đã cho số điện thoại, người này chỉ dẫn đường cho Đ. Khi đến vườn nhãn thuộc khu vực bản Huổi Hin, xã Mường Hung, huyện Sông Mã, Đ dừng xe lại, một lúc sau thấy người đàn ông dân tộc Mông đi đến, qua nói chuyện Đ đưa cho người đàn ông đó số tiền 4.000.000đ, người đàn ông người Mông cầm lấy tiền và bảo Đ đưa chiếc điện thoại cho rồi đi vào trong vườn nhãn được khoảng 03 phút sau quay lại đưa cho Đ điện thoại và 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 02 túi nilon màu xanh đựng Hồng phiến, Đ cất giấu gói ma túy vào trong túi quần rồi điều khiển xe đi về, trên đường về Đ có mở điện thoại ra xem giờ thì phát hiện nhật ký cuộc gọi của Đ đã bị xóa. Khi về đến khu vực bản Cát, xã Mường Hung, huyện Sông Mã thì bị tổ công tác Công an xã Mường Hung và đội Cảnh sát hình sự Công an huyện Sông Mã làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 22/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Tòng Văn Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tòng Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 10 năm 06 tháng - 11 năm tù. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và vật chứng liên quan. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động.

Buộc bị cáo chịu án phí hình sự. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, thống nhất với lời khai nhận trong quá trình điều tra, truy tố. Nhất trí với nội dung Bản cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau bị cáo đề nghị Toà án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt:

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 04/8/2020; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 1293 ngày 10/8/2020; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hành vi mua ma túy với mục đích mang về để sử dụng, khi trên đường về thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, tổng khối lượng ma túy thu giữ là là 38,63gam, loại Methamphetamine của bị cáo Tòng Văn Đ đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, không chỉ gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương mà còn ảnh hưởng sức khỏe con người, suy kiệt nòi giống, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Ngày 20/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy nhiên thời điểm đó bị cáo là người dưới 18 tuổi - Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 107 BLHS thì lần phạm tội này của bị cáo được coi là không có án tích. Do vậy xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ hiện nay bị cáo sống chung với bố mẹ, không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma tuý và vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo, xét thấy bị cáo đã dùng để trao đổi mua ma tuý nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.

Đối với người thanh niên tên K theo Đ khai đã đưa số điện thoại người Mông bán ma túy cho Đ để Đ vào huyện Sông Mã mua ma túy. Quá trình điều tra Đ không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ cụ thể của K nên cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã không có căn cứ để điều tra, xác minh.

Đối với người thanh niên tên Đ1, Đ khai đã đưa cho Đ 500.000đ nhờ đi mua hộ ma túy về cùng sử dụng, nhưng Đ đã không mua được ma túy. Quá trình điều tra Đ không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để mở rộng điều tra.

Đối với Lò Thị T là người cho Đ 100.000đ vào ngày 03/8/2020 để Đ chi tiêu cá nhân, T không biết việc Đ đi mua ma túy và không đóng góp cùng Đ mua ma túy nên hành vi của T không phải là đồng phạm.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 30L4 - 9417 Đức dùng làm phương tiện đi mua ma tuý. Qua xác minh xác định được chiếc xe là tài sản của Nguyễn Việt H. Việc H cho Đ mượn xe nhưng không biết việc Đ dùng làm phương tiện phạm tội, ngày 30/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã trao trả lại tài sản cho H quản lý sử dụng là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Tòng Văn Đ 10 năm 06 tháng (mười năm sáu tháng) tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 05/8/2020.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định, và các vật chứng liên quan bao gồm:

+ 37,67gam Methamphetamine.

+ 01 mảnh nilon màu trắng.

+ 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(Các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 000837).

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA.

Theo Quyết định chuyển vật chứng 08/QĐ - VKSSM ngày 22/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/10/2020 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 14/01/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HSST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về