Bản án 36/2021/HSST ngày 06/07/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 36/2021/HSST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Chiều ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 24/2021/HSST ngày 29/4/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 49/2021/TBHS-TA ngày 22/6/2021 đối với các bị cáo:

1. Vũ Đình Th, Giới tính: Nam.Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 18 tháng 05 năm 1991. Tại: xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Nơi đăng ký HKTT và chổ ở: thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hoá: Lớp 12/12 Nghề nghiệp: lái xe. Chức vụ, đảng phái: Quần chúng. Con ông: Vũ Đình Thái; Sinh năm 1965 (Đã mất). Con bà: Nguyễn Thị Công; Sinh năm 1967; Nghề nghiệp: Làm ruộng. Hiện cư trú tại thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Anh chị em ruột có hai người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Vũ Thị Thắm; sinh năm 1995; Nghề nghiệp: Công nhân. Hiện cư trú tại thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Con: Có 01 đứa, sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không. Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Vũ Đình Th bị tạm giữ từ ngày 21/01/2021, đến ngày 23/01/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú’’ tại thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đến ngày 28/4/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn Đ. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 01 tháng 07 năm 1989. Tại: xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Nơi đăng ký HKTT và chổ ở: thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.Trình độ văn hoá: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: lái xe. Chức vụ, đảng phái: Quần chúng. Con ông:

Nguyễn Văn Giang; Sinh năm 1962; Nghề nghiệp: làm ruộng. Con bà: Đỗ Thị Vi; Sinh năm 1960; Nghề nghiệp: làm ruộng. Hiện cả hai đều trú tại thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Anh chị em ruột có hai người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Nguyễn Văn Đ bị tạm giữ từ ngày 21/01/2021, đến ngày 23/01/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú’’ tại thôn An Phòng Giang, xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương đến ngày 28/4/2021. Hiện bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Đình Ch, sinh năm 1987; nghề nghiệp: Lao động tự do, trú tại Ấp Suối Sóc, xã Xuân Mỹ, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt

- Anh Vũ Văn V, sinh năm 1988; Nghề nghiệp: Lái xe. Đại diện Công ty TNHH MTV Thương mại và vận tải Đông Hòa – có mặt. Địa chỉ: Thôn Vũ Xá, xã Quang Khải, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vũ Đình Th cùng với Nguyễn Văn Đ, hợp đồng lái xe ô tô cho Công ty TNHH một thành viên thương mại và vận tải Đông Hòa, chở hàng từ tỉnh Hải Dương vào Thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Ngày 18/01/2021 sau khi trả hàng xong, Th và Đ điều khiển xe ô tô về bến xe Ngã Tư Ga để chờ Công ty tiếp tục điều hành chở hàng đi ra Bắc. Đến trưa ngày 19/01/2021, Vũ Đình Th, Nguyễn Văn Đ nhận được thông báo của Công ty qua điện thoại đi động đi bốc hàng bàn ghế Sofa và giường mây tre đan từ tỉnh Đồng Nai ra tỉnh Thanh Hóa theo hợp đồng đã ký của Công ty. Nguyễn Văn Đ trực tiếp điều khiển xe ô tô đi bốc hàng, còn Vũ Đình Th ở lại bến xe Ngã Tư Ga để tìm thêm hàng chở kết hợp đưa ra Bắc lấy tiền chia nhau (Các mặt hàng này không nằm trong hợp đồng của Công ty đã ký kết). Quá trình ở lại bến xe, Th đã nhận hàng vải cuộn để chở ra thành phố Hà Nội, tiếp tục tìm thêm hàng để nhận chở và chờ Đ đưa xe đến để bốc hàng chở đi. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi Th đang đứng chờ Nguyễn Văn Đ về để bốc hàng vải cuộn lên xe thì có một người đàn ông (Không r họ tên, địa chỉ) chở theo 05 (Năm) thùng cát tông đi vào bến xe nên Th hỏi “Hàng đi đâu”, người đàn ông trả lời “Hàng đi Vĩnh Phúc”, Th nói để Th nhận vận chuyển cho thì người đàn ông đồng ý và đưa số điện thoại 0904512875 của chủ hàng (Không r họ tên, địa chỉ), ở tỉnh Vĩnh Phúc cho Th liên lạc. Th dùng chiếc điện thoại di động, gặp một người đàn ông nói giọng miền Bắc. Qua điện thoại trao đổi, người đàn ông nói với Th có 05 (Năm) thùng thuốc lá không có giấy tờ em có chở được không, Th đồng ý chở và hai người thỏa thuận với nhau tiền phí vận chuyển mỗi thùng là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng), khi nào giao hàng sẽ nhận tiền vận chuyển. Sau khi Th liên lạc thống nhất với chủ hàng xong, thì người đàn ông chở 05 (Năm) thùng thuốc lá đến bốc xuống đặt chỗ Th đứng rồi đi về. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Văn Đ điều khiển xe ô tô chở anh Nguyễn Đình Ch (Người giám sát hàng) cùng với hàng hóa là bàn ghế Sofa và giường mây tre đan trên xe quay về bến xe Ngã Tư Ga đón Vũ Đình Th. Khi về đến bến xe, anh Nguyễn Đình Ch xuống xe đi ăn cơm, còn Đ xuống xe gặp Th.

Khi gặp Đ, Th nói với Đ có 05 (Năm) thùng thuốc lá không có giấy tờ chở ra tỉnh Vĩnh Phúc lấy tiền tiêu và Đ đồng ý. Tiếp đó, Th và Đ bốc hàng vải cuộn cùng với 05 (Năm) thùng thuốc lá lên thùng xe rồi phủ bạt lại. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Đ điều khiển xe ô tô tải chở toàn bộ số hàng đã nhận cùng với Th và anh Nguyễn Đình Ch theo đường Quốc lộ 1A để đi ra phía Bắc, trên đường đi Đ và Th thay nhau điều khiển. Đến 09 giờ 40 phút ngày 21/01/2021, khi Vũ Đình Th điều khiển xe ô tô tải đi đến địa phận tổ dân phố 10, thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh thì bị Tổ tuần tra Công an huyện Cẩm Xuyên phát hiện, bắt quả tang, tiến hành tạm giữ Vũ Đình Th, Nguyễn Văn Đ và tang vật để điều tra theo quy định.

Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đã niêm phong và trưng cầu giám định 05 (Năm) thùng cát tông bên trong chứa 249 (Hai trăm bốn chín) cây thuốc lá nhãn hiệu “555’’, kích thước 4,5cmx8,6cmx28cm, nền ngoài có in chữ chữ nước ngoài (Thu giữ trong quá trình bắt quả tang). Tại bản kết luận giám định số 648/C09-P4 ngày 22/01/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: 249 (Hai trăm bốn mươi chín) cây thuốc là điếu, tương đương 2.490 (Hai nghìn bốn trăm chín mươi) bao thuốc lá, mỗi bao đều chứa 20 (Hai mươi) điếu thuốc lá, không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” cùng loại với mẫu thuốc lá điếu so sánh mang nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” được sản xuất tại nước ngoài.

Tất cả các mẫu thuốc lá gửi giám định đều là thuốc lá điếu không được tiêu thụ tại Việt Nam. Theo Thông tư 124/2007/TT-BTC ngày 26/10/2007 của Bộ tài chính thuốc lá điếu nhập khẩu vào Việt Nam phải có “Tem thuốc lá điếu nhập khẩu” do Bộ Tài chính nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phát hành và dán trên từng bao. Hiện tại không đủ điều kiện để giám định mẫu thuốc lá mang nhãn hiệu trên là của nước nào sản xuất.

* Về thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đã thu giữ, xử lý vật chứng gồm:

+ Thu của Vũ Đình Th:

- 01 (Một) xe ô tô tải nhãn hiệu HINO, màu trắng, biển kiểm soát: 34C- 15528, số khung: 1JPU8XX13858, số máy: J08CF30951, đã qua sử dụng;

- 01 (Một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, biển kiểm soát 34C-115.28 số 051294, do Công an tỉnh Hải Dương cấp ngày 08/11/2018;

- 01 (Một) Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỷ thuật và bảo vệ môi trường của xe ô tô 34C-115.28, số KD 3928460 cấp ngày 09/11/2020 có thời hạn đến ngày 08/5/2021;

- 249 (Hai trăm bốn chín) cây thuốc lá điếu đều mang nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD”, đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 50 (Năm mươi) cây thuốc lá điếu, còn lại 199 (Một trăm chín chín) cây thuốc lá điếu đã được đóng gói niêm phong lại trong 05 (Năm) thùng cát tông dán kín;

- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J7, màu đen, số Imei 1: 353317091180647/01, số Imei 2: 353318091180645/01, bên trong chứa sim số: 0973.497.610, đã qua sử dụng.

+ Thu của Nguyễn Văn Đ:

- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu xanh ngọc bích, số Imei 1: 355173110141179, số Imei 2: 355173110141187, bên trong chứa các sim số: 0962.089.057 và 0983.542.525, đã qua sử dụng.

Xe ô tô cùng với giấy tờ liên quan đến xe ô tô đã trả lại cho chủ sỡ hữu. Còn các vật chứng khác hiện chưa xử lý và đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Xuyên để xử lý theo quy định của pháp luật.

Với hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 28/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên đã truy tố Vũ Đình Th, Nguyễn Văn Đ về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b, khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên sau khi phân tích đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 1; khoản 4 điều 191; các Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 35; Điều 65, Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Đình Th từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 đến 36 tháng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 đến 30 tháng. Phạt bổ sung bằng tiền mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của pháp luật để xử lý vật chứng, tiền án phí HSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố về thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại tố cáo về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng , cũng như người tiến hành tố tụng của điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình thụ lý, điều tra vụ án. Hội đồng xét xử thấy hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa các bị cáo Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp cáo trạng truy tố, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phù hợp với các vật chứng đã thu giữ, phù hợp với bản kết luận điều tra và cáo trạng truy tố. Từ đó Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: Vào hồi 09 giờ 40 phút ngày 21/01/2021 địa phận tổ dân phố 10, thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, Tổ tuần tra Công an huyện Cẩm Xuyên phát hiện, bắt quả tang Vũ Đình Th điều khiển xe ô tô tải chở 05 (Năm) thùng cát tông, bên trong chứa 2.490 (Hai nghìn bốn trăm chín mươi) bao thuốc lá điếu không dán tem nhập khẩu, không có chữ tiếng Việt nhãn hiệu “BLEND NO.555 GOLD” được sản xuất tại nước ngoài. Vũ Đình Th khai nhận số thuốc lá trên do Th và Nguyễn Văn Đ nhận vận chuyển của một người đàn ông từ bến xe Ngã Tư Ga, ở thành phố Hồ Chí Minh về tỉnh Vĩnh Phúc giao cho một người đàn ông để lấy 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) tiền vận chuyển chia nhau, nhưng chưa giao hàng và nhận tiền thì bị phát hiện, bắt giữ.

Trong vụ án Vũ Đình Th là người khởi xướng và là người thực hành tích cực, Nguyễn Văn Đ đồng phạm với vai trò thực hành.

Hành vi phạm tội của Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên khi lượng hình cần phải căn cứ vào hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo và xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú giám sát giáo dục cũng đủ nghiêm. Do đó lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức án đối với bị cáo là có căn cứ; cần được chấp nhận.

[3] Xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: không; Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ đã thành khẩn khai báo, các bị cáo có nhân thân tốt, từ trước đến nay các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy bị cáo Th và bị cáo Đ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với anh Nguyễn Đình Ch người đi cùng xe ô tô với các bị can, quá trình điều tra xác định việc Th và Đ nhận vận chuyển hàng thuốc lá trên xe ô tô 34C- 115.28, anh Chiến không tham gia nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đối với người đàn ông chở thuốc lá đến giao cho Th ở bến xe Ngã Tư Ga, thành phố Hồ Chí Minh và người đàn ông nhận hàng thuốc lá tại tỉnh Vĩnh Phúc mà Vũ Đình Th khai nhận. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch của các đối tượng nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Công ty TNHH một thành viên thương mại và vận tải Đông Hòa chủ sỡ hữu xe ô tô 34C-115.28 (Là pháp nhân thương mại) có Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ là nhân viên của công ty. Quá trình điều tra xác định khi Th và Đ nhận vận chuyển hàng cấm để lấy tiền không nhằm vào lợi ích cho công ty, không có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của lãnh đạo công ty Đông Hòa nên không xem xét xử lý.

[4] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu, tiêu hủy: 199 (Một trăm chín chín) cây thuốc lá điếu đã được đóng gói niêm phong lại trong 05 (Năm) thùng cát tông dán kín; sim số: 0973.497.610 thu của Vũ Đình Th;

Tịch thu bán sung công quỹ nhà nước: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J7, màu đen của Vũ Đình Th.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu xanh ngọc bích và các sim số: 0962.089.057 và 0983.542.525.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm b, Khoản 1; Khoản 4, điều 191; Khoản 2 Điều 35; Điểm i, s Khoản 1, Điều 51; Điều 65; Điều 17, 58 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Đình Th 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 06/7/2021. Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Bị cáo Nguyễn Văn Đ 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 06/7/2021. Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Giao bị cáo Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ cho UBND xã Quang Phục, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người phải thi hành án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điểm a, c, Khoản 1, Điều 47 BLHS, Khoản 1, Điểm a, c, Khoản 2, Điểm a, Khoản 3, Điều 106 BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 199 (Một trăm chín chín) cây thuốc lá điếu đã được đóng gói niêm phong lại trong 05 (Năm) thùng cát tông dán kín; một sim số: 0973.497.610.

+ Tịch thu bán sung công quỹ nhà nước:

- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J7, màu đen, số Imei 1: 353317091180647/01, số Imei 2: 353318091180645/01, đã qua sử dụng.

+ Trả lại cho Nguyễn Văn Đ:

- 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, màu xanh ngọc bích, số Imei 1: 355173110141179, số Imei 2: 355173110141187, bên trong chứa các sim số: 0962.089.057 và 0983.542.525, đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao ngày 29/4/2021 giữa Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh và Chi cục thi hành án huyện Cẩm Xuyên.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 135, Khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 điều 3, khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2006. Buộc Vũ Đình Th và Nguyễn Văn Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên (có mặt tại phiên tòa) được quyền kháng cáo bản án trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (vắng mặt) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HSST ngày 06/07/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:36/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về