Bản án 08/2021/HSST ngày 09/02/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 08/2021/HSST NGÀY 09/02/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 09 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh H, sinh năm 1986, tại: Bình Phước; HKTT: Tổ dân phố C, thị trấn Đ, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; con ông Nguyễn Văn Q (đã chết) và bà Nguyễn Bích Phg; có vợ (không đăng ký kết hôn) và một người con; tiền án, tiền sự: (không); bị bắtắtạm giữ, tạm giam ngày 27/11/2020 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Chu Thị HI, sinh năm 1993; trú tại: Thôn 7, xã LH, huyện PR, tỉnh Bình Phước; (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Trần Nhật Ph, sinh năm 1989; trú tại : Thôn 6B, xã BT, huyện Bù Gia Mập, tinh Bình Phước; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 26/11/2020, Nguyễn Minh H đang ở nhà thì đối tượng HA (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện thoại nói H sáng ngày 27/11/2020 đến khu vực lô cao su thuộc xã BT, huyện Bù Gia Mập chở pháo về xã LH cho HA, tiền công vận chuyển 800.000 đồng, H đồng ý. Sau đó HA đến nhà đưa cho H 12.000.000 đồng để H trả cho đối tượng bán pháo, còn tiền công trả sau. Khoảng 4 giờ ngày 27/11/2020, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47P1-122.08 đến diểm hẹn, tại đây H gặp một đối tượng giao cho H 02 bao tải bên trong chứa pháo, H trả cho đối tượng 12.000.000 đồng rồi chở pháo về xã LH. Khi đến đoạn đường ĐT760 thuộc thôn 6B, xã BT, huyện Bù Gia Mập thì bị Công an huyện Bù Gia Mập phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 30,6kg pháo nổ và pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ; 02 bao tải màu vàng; 01 xe ô tô biển kiểm soát 47P1-122.08.

Tại bản kết luận số 6194/C09B ngày 02/12/2020 của Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 09 khối hình hộp chữ nhật kích thước (16,5cm x 16,5cm x 19cm), bao bì nhiều màu sắc có ghi chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ; bên trong có chứa thành phần thuốc pháo, khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu; tổng khối lượng 15,3kg. 10 hộp giấy hình chữ nhật kích thước (27cm x27cm x7cm) in nhiều màu sắc có ký hiệu “AA8-2000”, bên trong mỗi hộp có chứa nhiều ống giấy hình trụ màu đỏ dài 3,3cm, đường kích 0,7cm được liên kết với nhau thành tràng gửi giám định đều là pháo nổ, khi đốt phát ra tiểng nổ lớn liên tiếp; tổng khối lượng 15,3kg.

Ngày 06/12/2020, Nguyễn Minh H bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Gia Mập khởi tố bị can để điều tra.

Bản cáo trạng số 09/CTr-VKS ngày 26-01-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51;Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 đến 30 tháng.

- Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: 25,67kg pháo nổ còn lại sau giám định gồm 07 khối hình hộp chữ nhật kích thước (16,5cm x 16,5cm x 19cm), bao bì nhiều màu sắc có ghi chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm và 09 hộp giấy hình chữ nhật kích thước (27cm x27cm x7cm) in nhiều màu sắc có ký hiệu “AA8-2000”, bên trong mỗi hộp có chứa nhiều ống giấy hình trụ màu đỏ dài 3,3cm, đường kích 0,7cm được liên kết với nhau thành tràng; 02 bao tải màu vàng.

+ 01 xe mô tô biển kiểm soát 47P1-122.08 đã được tách ra xác minh xử lý sau nên không đề cập xử lý.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng có ý kiến như sau:

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chu Thị HI khai (bút lục 101-102): Bà HI là vợ của H; xe mô tô biển kiểm soát 47P1-122.08 là của bà Hiền, xe có giấy tờ đầy đủ. Ngày 27/11/2020, bà Hiền cho H mượn xe, H chỉ nói là đi chở khách, bà không biết việc H lấy xe đi chở Pháo.

- Người chứng kiến Trần Nhật Ph khai (bút lục 97-100): Khoảng 5 giờ ngày 27/11/2020, ông Ph đi cạo mủ cao su về thấy Công an bắt một người đàn ông đi xe Vision màu đỏ chở 02 bao tải màu vàng. Công an kiểm tra thì thấy bên trong có chứa pháo, Ph có nghe H nói được người thuê vận chuyển pháo về xã LH.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về áp dụng Bộ luật Hình sự để xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14. Các hành vi phạm tội thực hiện từ ngày 01/01/2018 trở đi thì áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để giải quyết.

[3] Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 4 giờ ngày 27/11/2020, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47P1-122.08 đến điểm hẹn, tại đây H gặp một đối tượng giao cho H 02 bao tải bên trong chứa pháo, H trả cho đối tượng 12.000.000 đồng rồi chở pháo về xã LH cho HA. Khi đến đoạn đường ĐT760 thuộc thôn 6B, xã BT, huyện Bù Gia Mập thì bị Công an huyện Bù Gia Mập phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; khối lượng pháo nổ bị cáo vận chuyển là 30,6kg.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là xâm phạm trật tự quản lý việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ cá nhân, mục đích vận chuyển pháo nổ để nhận tiền công. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm”, Viện kiểm sát truy tố và luận tội bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo là người trực tiếp vận chuyển pháo nổ; phạm tội ít nghiêm trọng. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi của bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm và phòng ngừa chung.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”; đây là những tình tiết giảm nhẹ được xem xét khi lượng hình quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51; nhân thân tốt; có nơi cư trú rõ ràng; có khả năng tự cải tạo, nên không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo và thực hiện các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự trong thời gian thử thách cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

[8] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo là phù hợp và đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về vật chứng:

- 25,67kg pháo nổ còn lại sau giám định gồm 07 khối hình hộp chữ nhật kích thước (16,5cm x 16,5cm x 19cm), bao bì nhiều màu sắc có ghi chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm và 09 hộp giấy hình chữ nhật kích thước (27cm x27cm x7cm) in nhiều màu sắc có ký hiệu “AA8-2000”, bên trong mỗi hộp có chứa nhiều ống giấy hình trụ màu đỏ dài 3,3cm, đường kích 0,7cm được liên kết với nhau thành tràng là vật cấm lưu hành; 02 bao tải màu vàng không có giá trị, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 47P1-122.08 cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm, kể từ ngày tuyên án (09/02/2021) và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện ĐT, tỉnh Lâm Đồng nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác.

. 2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 25,67kg pháo nổ còn lại sau giám định gồm 07 khối hình hộp chữ nhật kích thước (16,5cm x 16,5cm x 19cm), bao bì nhiều màu sắc có ghi chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm và 09 hộp giấy hình chữ nhật kích thước (27cm x27cm x7cm) in nhiều màu sắc có ký hiệu “AA8-2000”, bên trong mỗi hộp có chứa nhiều ống giấy hình trụ màu đỏ dài 3,3cm, đường kích 0,7cm được liên kết với nhau thành tràng; 02 bao tải màu vàng.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (09/02/2021); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

364
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2021/HSST ngày 09/02/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:08/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về