Bản án 36/2021/HS-ST ngày 05/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 05/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 05 tháng 5 năm 2021 tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2021/TLST – HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST – HS ngày 13/4/2021 đối với bị cáo:

Hà Đăng P, sinh ngày 17/8/1988.

Nơi ĐKHKTT: Khu GĐ, phường S, thị xã T, thành phố Hà Nội. Chỗ ở: Tổ dân phố A, phường T, thị xã T, thành phố Hà Nội.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Con ông: Hà Đăng S và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có 01 con là Hà Kim K sinh năm 2008; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Tiền án: 01 tiền án - Ngày 26/4/2013 Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội xử phạt Hà Đăng P 09 năm 03 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản theo Bản án số 40/2013-HSST; Ngày 14/10/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã từ ngày 01/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Chị Lê Thị H, sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ A, phường P, TP H, tỉnh Hòa Bình (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 2001; Địa chỉ: Tổ X, phường S, thị xã T, thành phố Hà Nội (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1970; Địa chỉ: Số nhà Y, phố C, phường S, thị xã T, Thành phố Hà Nội (có mặt).

- Anh Nguyễn Bá N, sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ A, phố N, xã T, TP H, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Anh Phan Doãn H, sinh ngày 02/8/1968; địa chỉ: Tổ H, phường P, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Hòa Bình (có mặt) - Anh Phạm Văn T, sinh ngày 06/8/1974; ĐKHKTT: Tổ Q, đường N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Hải Dương; Chỗ ở: Thôn T, xã D, huyện G1, Hà Nội. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Hòa Bình. (có mặt) - Anh Kiều Văn K, sinh ngày 14/4/2000; địa chỉ: thôn Yỹ, xã T, thị xã T, TP Hà Nội. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam tỉnh Hòa Bình (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Doãn H và chị Lê Thị H có mối quan hệ quen biết, trong quá trình quen biết giữa hai người nảy sinh mâu thuẫn nên H muốn thuê người để đánh, gây thương tích cho chị H.

Thông qua mối quan hệ, H liên hệ và đặt vấn đề thuê Phạm Văn T đánh gây thương tích cho chị H với giá 70.000.000đ (bảy mươi triệu đồng), H yêu cầu T gây thương tích theo hai P án: một là hắt axit vào người, hai là chém gây thương tích. T đồng ý và liên hệ đặt vấn đề thuê Hà Đăng P và Kiều Văn K chém gây thương tích cho chị H. Do P không có P tiện đi lại nên T đã đưa K về nhàT lấy xe mô tô nhãn hiệu Exciter không xác định được biển kiểm soát và số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

Để thực hiện hành vi gây thương tích cho chị H, Hà Đăng P cùng K lên thành phố Hòa Bình để theo dõi quy luật sinh hoạt, lịch trình đi lại của chị H.

Đến ngày 01/3/2020 T điều khiển xe máy chở K ngồi sau cầm lọ thủy tinh có chứa dung dịch axit đã được pha loãng, khi phát hiện thấy chị H điều khiển xe máy đi từ cửa hàng theo hướng Hòa Bình – Sơn La, khi đến địa phận thuộc tổ 04, phường P Lâm, thành phố Hòa Bình T điều khiển xe tiếp cận sát chị H, K ngồi sau hắt lọ axit vào người chị H rồi tẩu thoát. Sau đó, K về thông báo cho P và P thông báo cho T biết, T gọi điện thông báo cho H yêu cầu H thanh toán nốt tiền công. H kiểm tra lại thì thấy chị H không bị thương tích gì, do vậy không đồng ý thanh toán.

Vào khoàng 04 giờ ngày 20/3/2020 P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter chở K mang theo con dao đã mua trước đó đi từ thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội đến thành phố Hòa Bình. Đến nơi P vào nghỉ tại nhà anh Nguyễn Bá N (là người quen của P), còn K điều khiển xe mô tô đến nhà chị H để theo dõi. Khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày quan sát thấy chị H ra khỏi nhà K đã gọi điện cho P, lúc này P đang ở cùng anh Nam nên đã nhờ Nam chở đến gặp K. Khi gặp nhau P đã điều khiển xe mô tô chở K phía sau áp sát xe mô tô của chị H để K dùng dao chém vào các ngón tay trên bàn tay phải của chị H theo hướng từ trên xuống rồi tẩu thoát khỏi hiện T. Sau khi thực hiện hành vi trên, bị cáo P đã bỏ trốn và ngàu 01/01/2021 P bị bắt theo Quyết định truy nãn bị can.

Quá trình điều tra, bị cáo Hà Đăng P đã thành khẩn khai báo, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan và toàn bộ tài liệu đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận:“Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13% (mười ba phần trăm)”.

Cáo trạng số: 19/CT-VKS-P2 ngày 17/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình truy tố Hà Đăng P về tội "Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị tuyên bố bị cáo Hà Đăng P phạm tội “Cố ý gây thương tích”, xử phạt từ 30 đến 36 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Các vật chứng trong vụ án đã được giải quyết tại một bản án khác nên không đề cập xử lý.

Đối với số tiền bị cáo T đã thanh toán cho bị cáo P để P gây thương tích cho H, đề nghị truy thu xung công quỹ nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại chị Lê Thị H không yêu cầu bị cáo Hà Đăng P phải bồi thường về trách nhiệm dân sự nên không đề cập giải quyết.

Phần tranh luận: Bị cáo, bị hại, người liên quan không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi mà bị cáo đã thực hiện: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng phù hợp với Kết luận giám định và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 20/3/2020, khởi đầu từ đối tượng Phan Doãn H thuê đối tượng Phạm Văn T, thông qua chỉ đạo từ T, bị cáo Hà Đăng P và đối tượng Kiều Văn K điều khiển xe mô tô áp sát ngang thân xe máy của chị H, K ngồi sau tay phải cầm dao nhọn chém một phát hướng từ trên xuống dưới vào các ngón tay của bàn tay trái của chị H. Kết luận giám định xác định chị H tổn hại 13% sức khỏe. Các đối tượng đã dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho chị H và hành vi của bị cáo P cùng các đối tượng thực hiện có tính chất côn đồ nên hành vi trên của bị cáo đã phạm vào các điểm a, h, i theo khoản 1 của Điều 134 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc Trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa P. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì lợi ích vật chất mà coi thường sức khỏe của người khác nên vẫn cố ý thực hiện. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3]. Xét vai trò của bị cáo trong vụ án HĐXX xét thấy:

Bị cáo Hà Đăng P là người tiếp nhận ý trí từ đối tượng Phạm Văn T, sau khi bàn bạc với đối tượng Kiều Văn K, bị cáo đã điều khiển xe mô tô trở K áp sát xe mô tô của chị H để K trực tiếp dùng dao chém vào ngón tay của chị H, gây thương tích cho chị H, bị cáo tham gia vụ án với tư cách đồng phạm cùng các đối tượng khác, giữ vai trò là người giúp sức tích cực, nên phải chịu mức hình phạt tương xứng với tích chất, mức độ, hậu quả của hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo cùng tham gia bàn bạc về hành vi hắt axit để gây thương tích cho chị H nhưng không gây được thương tích, sau đó tiếp tục thực hiện hành vi chém vào ngón tay chị H, do vậy phải chịu tình tiết tăng nặng về hành vi “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Đồng thời, bị cáo P có 01 tiền án chưa được xóa án tích, cụ thể: Ngày 26/4/2013 Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội xử phạt Hà Đăng P 09 năm 03 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản theo Bản án số 40/2013-HSST; Ngày 14/10/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Thời điểm thực hiện hành vi gây thương tích cho chị H bị cáo chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét áp dụng cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị hại chị Lê Thị H không yêu cầu bị cáo P phải bồi thường về trách nhiệm dân sự, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Đối với các đối tượng Phan Doãn H, Phạm Văn T và Kiều Văn K cùng bị cáo Hà Đăng P tham gia chỉ đạo, bàn bạc và cùng thực hiện hành vi gây thương tích cho chị Lê Thị H, tuy nhiên những đối tượng này đã bị xét xử bằng một bản án khác. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Đối với Nguyễn Mạnh T – là người cùng bị cáo K thực hiện việc hắt axit vào người chị H nhưng chưa gây thương tích, xét thấy hành vi gây thương tích chém vào ngón tay của chị H T không được tham gia, bàn bạc nên không đề cập xử lý trong vụ án này, cơ quan điều tra tiếp tục điều tra về hành vi tạt axit của T, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

Đối với Nguyễn Bá N là người điều khiển xe máy chở Hà Đăng P đến chỗ Kiều Văn K để P cùng K thực hiện hành vi chém chị H. Bản thân Nam không được bàn bạc và không biết việc các đối tượng gây thương tích cho chị H nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với bà Nguyễn Thị Th là mẹ đẻ của Hà Đăng P, là người trực tiếp nhận số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) từ Phạm Văn T, nhưng không biết và không tham gia bàn bạc về hành vi gây thương tích cho chị H nên không xem xét xử lý là có căn cứ.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với P tiện và hung khí dùng để gây án gồm: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại EXCITER của đối tượng Phạm Văn T và 01 con dao nhọn đã được đề cập giải quyết trong một bản khác nên không đề cập giải quyết tại bản án này.

- Bị cáo P nhận từ đối tượng Phạm Văn T số tiền 45.000.000đ (bốn mươi lăm triệu đồng), bà Th (mẹ bị cáo P) nhận từ T số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng). Bị cáo P đưa cho đối tượng Kiều Văn K số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng). Số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) và 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng) đã được tịch thu và truy thu xung công quỹ trong một vụ án khác. Số tiền còn lại bị cáo P đã sử dụng là 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng), xét đây là số tiền do phạm tội mà có, cần truy thu của bị cáo P để xung công.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Hà Đăng P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Xử phạt: Hà Đăng P 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Truy thu số tiền sau:

+ Truy thu số tiền: 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) của bị cáo Hà Đăng P để xung công quỹ nhà nước.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Bị cáo Hà Đăng P phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HS-ST ngày 05/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về