Bản án 36/2021/HSST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

   TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 36/2021/HSST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2021/TLST-HS ngày 19/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST-HS ngày 19/02/2021 đối với các bị cáo:

1. Cà Văn L; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1991 tại xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản M, xã C, huyên Thuận Châu , tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: VỊêt Nam; Con ông Cà Văn T (đã chết) và bà Lò Thị T, sinh năm: 1962; Bị cáo có vợ: Lò Thị D, sinh năm 1995 và 01 con 02 tuổi; Tiền án : Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/11/2020 cho đến nay, có mặt.

2. Lò Văn Trung; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1997 tại xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản C, xã C, huyên Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn Đ , sinh năm: 1971 và bà Lò Thị L (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, Tiền sự : Ngày 27/06/2020 bị UBND xã C, huyện Thuận Châu ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 26/6/2020 đến 26/9/2020 do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (chưa hết thời hạn bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính); Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/11/2020 cho đến nay, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lò Văn Đ; Sinh năm: 1971; Nơi cư trú: Bản C, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Chị Lò Thị D; Sinh năm : 1995; Nơi cư trú: Bản M, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 27/11/2020, Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực Thôn 1, xã T, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang: Cà Văn L, sinh năm: 1991, trú tại: Bản M , xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: một gói nilon màu trắng bên trong chứa một ít chất bột cục màu trắng, nghi là Heroine và hai viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp ( L khai là Heroine và ma túy tổng hợp); một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng đồng, số IMEI: 358568075437577, máy đã qua sử dụng; một chiếc xe máy nhãn hiệu DETECH, loại xe ESPERO, BKS: 26 AA - 089.19, màu sơn trắng, số khung: 414516, số máy: 414516, xe đã qua sử dụng cũ.

Tiến hành điều tra về nguồn gốc gói ma túy thu giữ thì Cà Văn L khai nhận nhờ Lò Văn T, sinh năm: 1997, trú tại: Bản C, xã C, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đi mua hộ. Mở rộng điều tra vụ án đến 08 giờ 50 phút ngày 28/11/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã thi hành Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn T, quá trình bắt giữ không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Hồi 21 giờ 15 phút ngày 27/11/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh số bột cục màu trắng và hai viên nén màu hồng thu giữ của Cà Văn L. Cân tịnh bột màu trắng được khối lượng 0,05g ( Không phẩy không năm gam), trích rút toàn bộ 0,05 gam ký hiệu L1 gửi giám định chất và loại ma túy. Cân tịnh 02 viên nén hình trụ màu hồng được tổng khối lượng 0,20g (Không phẩy hai mươi gam), trích rút toàn bộ 0,20 gam ký hiệu L2 gửi giám định chất và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 1714 /KL ngày 30/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy; loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu L2 là ma túy; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,05 gam loại Heroine và 0,20 gam, loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L2, không sử dụng hết trong quá trình giám định, có khối lượng 0,14 gam.

Căn cứ Điều 4 - Nghị định số: 19/2018/NĐ-CP ngày 02/2/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tổng khối lượng chất ma túy Cà Văn L tàng trữ trái phép là: 0,25 g (Không phẩy hai mươi năm gam) loại Heroine và loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra các bị cáo Cà Văn L và Lò Văn T khai nhận: Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 27/11/2020 khi Cà Văn L đang ở quán bán hàng nhà L ở Thôn 1, xã T, huyên Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì có Hà Thị C, sinh năm: 1976, cùng trú tại: Thôn 1, xã T, huyên Thuận Châu, tỉnh Sơn La gọi điện thoại cho L nhờ L mua hộ cho C 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) Heroine và ma túy tổng hợp về để sử dụng, L đồng ý và bảo Công để L hỏi nếu mua được ma túy thì L sẽ vào nhà C để lấy tiền đi mua ma túy hộ cho C. Sau đó L gọi điện thoại cho Lò Văn T bảo T là “Anh có 400.000 đồng mày đi lên chợ Tông Lạnh lấy tiền đi mua ma túy hộ anh”, T đồng ý. Sau đó L điều khiển xe máy mang BKS: 26 AA - 089.19 đi vào nhà C gặp C đang ở nhà một mình thì C đưa cho L số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) để đi mua ma túy. L cầm tiền của C đưa rồi đi ra chợ Tông Lạnh gặp và đưa cho T số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) để đi mua ma túy và nói với T “Mua cho anh hai viên hồng phiến và còn lại mua Heroine”, T đồng ý cầm tiền L đưa và điều khiển xe máy nhãn hiệu SUFAT, màu sơn xanh, không biển kiểm soát đi lên xã T, huyện Thuận Châu để tìm mua ma túy cho L. Khi T đến bản T, xã Thôm Mòn thì T gặp và hỏi được của một nam thanh niên dân tộc Thái một gói ma túy được gói bằng nilon màu trắng bên trong có một ít Heroine và 05 viên ma túy tổng hợp với giá 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy thì T cầm gói ma túy người thanh niên này đưa và đi vào bụi cây ven đường san ra một ít Heroine và một viên hồng phiến ra sử dụng cho bản thân. Sau khi sử dụng xong thì T lấy 02 viên ma túy tổng hợp gói lại bằng nilon màu trắng nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, còn 02 viên ma túy tổng hợp và số Heroine còn lại thì T gói lại để đưa về cho L. Sau đó T cầm hai gói ma túy vừa chia ra ở bên tay trái và điều khiển xe máy về nhà, trên đường về nhà thì L có gọi điện cho T hỏi “Đã mua ma túy được chưa? T trả lời “Em đã mua được rồi” và hẹn L xuống khu vực bản L, xã C để đưa ma túy cho L. Khi T đến đầu bản L, xã C thì T dừng xe đợi khoảng 3 phút sau L đến thì T đưa cho L một gói nilon màu trắng bên trong có 02 viên ma túy tổng hợp và một ít Heroine, còn 02 viên ma túy tổng hợp thì sau đó T đã đi vào bụi cây ven đường gần đó sử dụng hết. Sau khi nhận được gói ma túy T đưa thì L cầm gói ma túy ở tay trái rồi điều khiển xe máy đi vào nhà C để đưa ma túy cho C. Khi L đi đến khu vực Thôn 1, xã T, huyên Thuận Châu thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu yêu cầu kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra đã thu giữ gói ma túy mà L đang cất giấu và thu giữ các tang vật như đã nêu trên. Tổ công tác đã đưa L về trụ sở UBND xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Mở rộng điều tra đến ngày 28/11/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã thi hành Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn T. Sau đó Cà Văn L và Lò Văn T cùng tang vật đã được dẫn giải về Công an huyện Thuận Châu xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 19/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố Cà Văn L và Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, Cà Văn L và Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Cà Văn L, Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Cà Văn L từ 16 đến 20 tháng tù.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 15 đến 20 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: Một mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 (một) phong bì thu niêm phong, dán kín. Một phong bì niêm phong mẫu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La: Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,14 gam.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Một điện thoại di động nhãn hiệu IPhone màu vàng đồng, số IMEI: 358568075437677, máy đã qua sử dụng cũ; Một điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu xanh, số IMEI: 356317051876298, máy đã qua sử dụng cũ.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn Đ: Một xe máy nhãn hiệu SUFAT , màu sơn xanh, không biển kiểm soát, số máy: Không xác định, số khung: Không xác định, xe đã qua sử dụng cũ nát.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Cà Văn L và Lò Văn T thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 27/11/2020 Lò Văn T đã có hành vi đi mua hộ ma túy cho Cà Văn L nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, Cà Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,25 gam (Không phẩy hai mươi năm gam) chất ma túy, loại Heroine và loại Methamphetamine (Trong đó 0,05 gam Heroine và 0,20 gam Methamphetamine) nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực Thôn 1, xã T, huyện Thuận Châu.

Tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của các bị cáo phù hợp với:

Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 30 phút ngày 27/11/2020; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong ; Kết luận giám định số 1714/KL ngày 30/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

[2] Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,25 gam chất ma túy, loại Heroine và loại Methamphetamine (Trong đó 0,05 gam Heroine và 0,20 gam Methamphetamine) với mục đích để sử dụng của Cà Văn L và Lò Văn T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với các bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân, vai trò của các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Bị cáo Cà Văn L tích cực hợp tác với cơ quan điều tra phát hiện tội phạm cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo Cà Văn L phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị cáo Lò Văn T có 01 tiền sự ( chưa hết thời hạn bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính ) thuộc trường hợp người có nhân thân xấu.

Về vai trò: Các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, trong đó Cà Văn L giữ vai trò khởi xướng, Lò Văn T giữ vai trò đồng phạm tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần áp dụng Điều 58 Bộ luật hình sự để cá thể hóa hành vi phạm tội của mỗi bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Các bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo T khai mua của một nam thanh niên dân tộc Thái (không biết họ tên và địa chỉ cư trú) tại bản T, xã T, huyện Thuận Châu vào ngày 27/11/2020. Do T không biết họ tên, tuổi và địa chỉ cư trú của nam thanh niên này nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ điều tra xử lý.

[7] Đối với đối tượng là Hà Thị C, sinh năm: 1976, trú tại: Thôn 1, xã T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La theo Cà Văn L khai là nhờ Linh đi mua hộ ma túy cho công vào ngày 27/11/2020. Cơ quan điều tra đã nhiều lần xác minh để làm rõ hành vi nhờ L đi mua mua hộ ma túy. Tuy nhiên hiện nay C không có mặt tại địa phương. Ngày 10/12/2020 cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu đã ra thông báo truy tìm đối tượng số 159 đối với Hà Thị C nhưng đến nay chưa xác định C đang ở đâu. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với vật chứng là một mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 (một) phong bì thư niêm phong, dán kín. Một phong bì niêm phong mẫu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,14 gam là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng do đó cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu IPhone màu vàng đồng, số IMEI: 358568075437677, máy đã qua sử dụng cũ; Một điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu xanh, số IMEI: 356317051876298, máy đã qua sử dụng cũ là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc vào việc phạm tội, cần tuyên nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 (một) xe máy nhãn hiệu SUFAT, màu sơn xanh, không biển kiểm soát, số máy: Không xác định, số khung: Không xác định, xe đã qua sử dụng cũ nát thu giữ của bị cáo T. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe là tài sản của ông Lò Văn Đ (bố đẻ của bị cáo T), việc bị cáo T sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, ông Đ không biết, vì vậy cần tuyên trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp ông Lò Văn Đ.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả cho chị Lò Thị D 01 chiếc xe máy, BKS 26AA- 089.19, số khung 414516, số máy: 414516, xe đã qua sử dụng cũ.

(Căn cứ vào điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự).

[9] Về án phí: Các bị cáo là sống ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Cà Văn L và Lò Văn T.

[10] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Cà Văn L , Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Cà Văn L 15 ( mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27/11/2020).

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 20 ( hai mươi ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 28/11/2020).

Tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy:

Một mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được cho vào cùng 01 (một) phong bì thu niêm phong, dán kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Cà Văn L - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 27/11/2020”. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023834 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, chữ ký của người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu.

Một phong bì niêm phong mẫu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Mặt trước có chữ “CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỶ THUẬT HÌNH SỰ, PHONG BÌ NIÊM PHONG, Vật chứng vụ “Cà Văn L - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 27/11/2020 tại xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La”. Niêm phong hồi.... giờ... phút, ngày tháng.... năm 2020. Tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + Chất bột màu hồng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L2 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,14 gam. Mặt sau có dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La, có số seri: 051388 lên các mép dán của phong bì, Trên giấy niêm phong có 03 dòng chữ ký kèm 03 dòng họ tên và 02 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng do đó cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ Điều 47 Bộ Luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước : Một điện thoại di động nhãn hiệu IPhone màu vàng đồng, số IMEI: 358568075437677, máy đã qua sử dụng cũ; Một điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu xanh, số IMEI: 356317051876298, máy đã qua sử dụng cũ.

- Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn Đ: Một xe máy nhãn hiệu SUFAT , màu sơn xanh, không biển kiểm soát, số máy: Không xác định, số khung: Không xác định, xe đã qua sử dụng cũ nát.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

- Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả cho chị Lò Thị D 01 chiếc xe máy, BKS 26AA- 089.19, số khung 414516, số máy: 414516, xe đã qua sử dụng cũ.

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Cà Văn L và Lò Văn T.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị D được kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn Đ được kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HSST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về