Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 603/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 208/2020/QĐXX-ST ngày 30 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 148/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Bùi Thị Thúy A, sinh năm: 1989 (có mặt) Địa chỉ: ấp BHB, xã BT, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

2/ Bị đơn: Huỳnh Văn T, sinh năm: 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp BHB, xã BT, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 30/7/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Bùi Thị Thúy A trình bày:

Chị và anh Huỳnh Văn T cưới nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2018 thì có mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn và lại còn tranh cãi với vợ con, không quan tâm chăm sóc vợ con, đã được khuyên giải nhiều lần nhưng anh T vẫn không thay đổi dẫn đến gia đình thường xuyên mâu thuẫn, có khi nhiều tháng không nói chuyện với nhau làm ảnh hưởng tâm lý vợ và con. Từ tháng 6/2019 vợ chồng sống ly thân nhưng vẫn ở chung một nhà. Đến nay đời sống chung của anh chị không thể hòa hợp, tình cảm vợ chồng không còn, cả hai không có khả năng hàn gắn nên chị khởi kiện như sau:

-Về quan hệ hôn nhân: cho chị được ly hôn với anh Huỳnh Văn T.

-Về con chung: có 01 con chung tên Huỳnh Trung H, sinh ngày 05/7/2014. Chị A yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về nợ chung: Không có Anh Huỳnh Văn T đã được tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như các văn bản tố tụng khác nhưng không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị A.

Tại phiên tòa, chị A vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn, nuôi con như đã trình bày. Anh T vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đối với đương sự: nguyên đơn thực hiện đúng, bị đơn thực hiện chưa đúng pháp luật tố tụng dân sự.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị A được ly hôn với anh T. Về con chung, giao cho chị A được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị A không yêu cầu; tài sản chung: không yêu cầu giải quyết; nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Huỳnh Văn T được triệu tập dự phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Thúy A và anh Huỳnh Văn T cưới nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn vào ngày 07/6/2010 tại UBND xã Bình Trưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44 quyển số I/2010, như vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Theo chị A trình bày tại phiên tòa thì vợ chồng sống tương đối hạnh phúc, sau đó thì có mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn, không lo gì cho vợ con, chị khuyên can nhiều lần mà không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng hơn, có khi nhiều tháng không nói chuyện với nhau, chị đã về nhà cha mẹ ruột ở hơn một năm mà anh T không thay đổi gì. Nay chị không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu được ly hôn.

Xét thấy, chị An xin ly hôn nhưng anh T không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của chị A dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần. Tại phiên tòa hôm nay chị A vẫn cương quyết xin được ly hôn, anh T không đến Tòa án và vắng mặt không lý do điều này thể hiện anh T không có ý chí mong muốn tình cảm vợ chồng hàn gắn mà để mặc cho chị A quyết định.

Xét, về tình nghĩa vợ chồng thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau nhưng hiện giữa chị A và anh T không còn tình nghĩa vợ chồng, hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó nay chị A xin ly hôn với anh T là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: chị A và anh T có 01 con chung tên Huỳnh Trung H, sinh ngày 05/7/2014. Chị A yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu được nuôi con của chị A thấy rằng cháu H mới hơn 6 tuổi, cháu đã sinh sống ổn định với chị A kể từ ngày anh chị mâu thuẫn và sống ly thân nhau. Để ổn định về mặt tâm sinh lý cũng như nơi sinh sống của con, Hội đồng xét xử nghĩ cần tiếp tục giao con cho chị A nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: chị A không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản và nợ chung: chị A trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bùi Thị Thúy A được ly hôn với anh Huỳnh Văn T.

2. Về con chung: giao chị Bùi Thị Thúy A tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Trung H, sinh ngày 05/7/2014. Anh Huỳnh Văn T có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm, chăm sóc con chung mà không ai có quyền cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: anh Huỳnh Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Bùi Thị Thúy A không yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Thúy A chịu là 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng tại biên lai số 0003257 ngày 05/10/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xem như đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: chị Bùi Thị Thúy A có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Huỳnh Văn T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về