Bản án 36/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2020/HS-ST ngày 07 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 37/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo Trần Xuân L.

Tên gọi khác: Trần Văn B, sinh năm 1989, tại Hà Nội; nơi cư trú: Đội 6, thôn V , xã H, huyện M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân Ph và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không.

Đặc điểm nhân thân: Ngày 02/6/2009, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản”. Ngày 23/3/2011, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản”. Ngày 18/8/2014, Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Tạm giữ ngày 09/02/2020; tạm giam ngày 12/02/2020. Có mặt.

* Bị hại: Anh Lê Quang M, sinh năm 2000; nơi cư trú: Tổ 2, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tổ 3, thị trấn Q, huyện K, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 09/02/2020, Trần Xuân L, sinh năm 1989; nơi cư trú: Đội 6, thôn V, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội mang theo 01 con dao bầu, 03 đầu vam, 02 đầu trục và 01 tay công bằng kim loại đi nhờ xe mô tô của người đàn ông không quen biết đến khu vực huyện K, tỉnh Hà Nam với mục đích trộm cắp. Khoảng 19 giờ cùng ngày, L đi bộ đến nhà hàng B thuộc địa phận thôn M, xã Ng, huyện K thấy trước cửa nhà hàng dựng nhiều xe mô tô không có người bảo vệ. L đến gần chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS 90B3- 085.77 dùng tay phải lấy từ trong túi áo khoác bên phải một đầu vam phá khóa, 01 đầu trụ và 01 tay công rồi lắp lại với nhau thành 01 bộ vam phá khóa. L cắm đầu vam phá khóa vào ổ khóa điện của xe mô tô BKS 90B3-085.77 vặn mạnh từ trái sang phải hai nhát thấy đèn điện xe mô tô sáng. L tháo bộ phá khóa ra cất vam, đầu trục, tay công vào túi áo khoác bên phải. L dùng hai tay dắt xe mô tô lùi lại, đề xe nổ máy, điểu khiển xe đi hướng ngã tư Biên Hòa, khi đi được khoảng 10m thì bị Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Thu trong túi áo khoác bên ngoài của Trần Xuân L 01 tay vam hình trụ dài 0,14m; 01 đầu trục hình trụ tròn rỗng dài 0,05m; 01 đầu trục hình trụ tròn rỗng dài 0,018 bằng kim loại màu bạc. 01 đầu vam dài 0,063m; 01 đầu vam dài 0,062m bằng kim loại màu xám; 01 đầu vam dài 0,057m bằng kim loại màu ghi. Thu trong áo khoác phía trong bên trái 01 con lạo dao bầu. Thu giữ 01 xe mô tô BKS 90B3-085.77. Tạm giữ của anh Nguyễn Văn Huy 01 đĩa CD copy màu vàng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Xuân L, không thu giữ tài liệu, đồ vật gì.

Tại bản kết luận giám định tài sản số 03 ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Kim Bảng kết luận: Theo giá thị trường hiện tại của 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS 90B3-085.77 có giá bán trên thị trường vào thời điểm hiện tại là 13.750.000đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha BKS 90B3-085.77 là tài sản hợp pháp của anh Lê Quang Mnên đã trả lại cho anh M.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKSKB ngày 05/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trần Xuân L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Xuân L từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/02/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên tòa và quá trình điều tra, bị cáo Trần Xuân L thành khẩn khai báo. Lời khai nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang về thời gian, địa điểm cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 09/02/2020, tại thôn M, xã Ng, huyện K, tỉnh Hà Nam. Trần Xuân L, sinh năm 1989, tên gọi khác Trần Văn B, trú tại Đội 6, thôn V, xã H, huyện M, thành phố Hà Nội đã trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS 90B3-085.77 trị giá 13.750.000đồng của anh Lê Quang M thì bị Công an huyện Kim Bảng bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi đó của Trần Xuân Lộc đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của anh Lê Quang M về tài sản mà quyền sở hữu đó được Nhà nước bảo hộ. Bị cáo chuẩn bị công cụ, lợi dụng sự sơ hở của anh M đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô mô tô BKS 90B3-085.77 trị giá 13.750.000đồng mà anh M không hay biết tài sản của mình đang bị chiếm đoạt đã gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.

[4] Xét về mặt chủ quan của tội phạm, bị cáo thực hiện do lỗi cố ý, biết rõ tài sản của người khác nhưng vẫn chiếm đoạt nhằm mục đích thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân.

[5] Khi quyết định hình phạt Tòa án thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có bố đẻ là người thờ cúng liệt sỹ Trần Xuân Đ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không phải chịu nhưng bị cáo có nhân thân rất xấu. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung [6] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo làm nghề tự do, không có tài sản, là người mắc nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có ý kiến thắc mắc gì nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Xử lý vật chứng: Gồm 01 tay vam hình trụ, 02 đầu trục hình trụ, 03 đầu vam và 01 con dao loại dao bầu là công cụ phạm tội, vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Xuân L. Tên gọi khác Trần Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Xuân L 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/02/2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 tay vam hình trụ, 02 đầu trục hình trụ, 03 đầu vam bằng kim loại và 01 con dao loại dao bầu bằng kim loại (Tình trạng, đặc điểm vật chứng, tài sản như biên bản giao nhận giữa cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 06/5/2020).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Xuân L phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về