Bản án 36/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T – TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2020/ QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

ĐÀNG QUANG A, sinh năm: 1986 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; tôn giáo: Bà la môn; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàng Ngọc Q và bà Đổng Thị M; có vợ và 03 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo đang tại ngoại. (Có mặt) - Bị hại: Công ty cổ phần xây dựng cơ khí A74.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tăng Tấn C – Phó Giám đốc; địa chỉ:

Cụm công nghiệp T 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Cao C, sinh năm: 1991; nơi cư trú: Thôn Q 1, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Xin xét xử vắng mặt) - Người làm chứng:

1.Anh Bùi Văn Th, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Thôn T, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Đăng Kh, sinh năm: 1986; nơi cư trú: Thôn T, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đàng Quang A làm thuê tại Dự án điện năng lượng mặt trời Trung Nam T. Quá trình làm việc tại trạm inverter 13.1 của dự án, Ánh thấy 03 cuộn dây điện loại DC 120mm của nhà thầu phụ là Công ty cổ phần xây dựng cơ khí A74, địa chỉ tại Cụm công nghiệp T 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk, để ở cuối đường trong dự án, không có người trông coi nên A nảy sinh ý định trộm cắp dây điện bán phế liệu lấy tiền tiêu xài.

Khoảng 19 giờ ngày 12/8/2020, Đàng Quang A một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 49E1-007.34 mang theo 01 cây kéo cộng lực và 02 bao nylon màu trắng đi đến dự án điện mặt trời Trung Nam thuộc thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận để cắt trộm dây điện. A điều khiển xe từ nhà ở xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận đến khu vực đường bê tông gần hồ Suối Lớn, xã N, huyện T giấu xe tại rẫy người dân gần đường bê tông rồi đi bộ khoảng 500 mét, đến hàng rào lưới sắt của dự án chưa thi công xong, có đoạn mở, A trèo qua hàng rào vào dự án. Khi đến vị trí để 03 cuộn dây điện, A dùng kéo cộng lực cắt trộm dây cáp điện trong 01 cuộn dây điện thành 74 đoạn, mỗi đoạn dài khoảng 24 – 82cm, sau đó cắt 10 đoạn, mỗi đoạn dài khoảng 02 mét, sau khi cắt xong, A vác số dây điện cắt trộm được đến nơi giấu xe, bỏ số dây cáp điện cắt ngắn và kéo cộng lực vào một bao nylon, bỏ số đây cáp điện cắt dài vào một bao nylon, để một bao lên sau xe và một bao lên trước xe, đẩy xe máy ra đến đường bê tông, khi đẩy được khoảng 50 mét, bị ngã xe, 02 bao đựng dây điện bị rơi xuống bên trái đường, A dựng xe lên thì cùng lúc này có anh Bùi Văn Th, Nguyễn Đăng Kh là bảo vệ của dự án đi tuần tra, phát hiện, A bỏ chạy, để lại xe mô tô và 02 bao nylon chứa 84 đoạn dây cáp điện. Anh Th báo Tổ tuần tra Công an huyện lập biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu. Ngày 14/8/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện T mời A làm việc, A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra xác định chiều dài của 84 đoạn dây điện là 69,97m. Bản kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐG ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản theo tố tụng hình sự huyện T kết luận giá trị của 69,97m dây cáp điện loại DC120mm là 21.191.184đ (Hai mươi mốt triệu một trăm chín mươi mốt nghìn một trăm tám mươi bốn đồng).

Tại bản Cáo trạng số: 25/CT-VKSTN ngày 08/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Đàng Quang A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đàng Quang A phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.

Xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) kéo cộng lực dài 46cm có cán màu cam, tay cầm bọc cao su màu đen; 02 (Hai) bao nylon màu trắng có in nhãn hiệu thức ăn hỗn hợp có kích thước (90 x 51)cm là các công cụ phạm tội.

Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đàng Quang A đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 12/8/2020 tại khu vực inverter 13.1 Dự án điện mặt trời Trung Nam T thuộc thôn B, xã N, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu đã lén lút trộm cắp 69,97m dây cáp điện loại DC120mm của Công ty cổ phần xây dựng cơ khí A74, có giá trị là 21.191.184đ (Hai mươi mốt triệu một trăm chín mươi mốt nghìn một trăm tám mươi bốn đồng) (Theo Bản kết luận định giá tài sản số: 21/KL-HĐĐG ngày 14/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T).

Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt và chưa có tiền án, tiền sự.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện theo ủy quyền của bị hại là anh Nguyễn Cao C đã nhận số tiền 5.000.000 đồng do bị cáo Đàng Quang A bồi thường và không yêu cầu gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) kéo cộng lực dài 46cm có cán màu cam, tay cầm bọc cao su màu đen; 02 (Hai) bao nylon màu trắng có in nhãn hiệu thức ăn hỗn hợp có kích thước (90 x 51)cm là các công cụ phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 49E-007.36, kết quả ủy thác điều tra xác định đây là tài sản bị mất trộm vào tháng 01 năm 2019 tại huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Cơ quan điều tra Công an huyện T tách ra, chuyển đến Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xử lý theo thẩm quyền. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đàng Quang A phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Đàng Quang A 01 (Một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (Hai) năm kể từ ngày tuyên án (Ngày 25/11/2020). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ vào Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) kéo cộng lực dài 46cm có cán màu cam, tay cầm bọc cao su màu đen; 02 (Hai) bao nylon màu trắng có in nhãn hiệu thức ăn hỗn hợp có kích thước (90 x 51)cm (Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T giữa Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đàng Quang A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 25/11/2020). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về