Bản án 36/2020/HS-ST ngày 23/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 23/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 23 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2020/HSST 25 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyn Văn H, sinh năm 1975 tại thành phố C, tỉnh H; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa(học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn K và con bà Trương Thị K; có vợ: Nguyễn Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tạm giữ từ ngày 08/01/2020 đến ngày 10/01/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 Địa chỉ: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

+ Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Đình V, sinh năm 1967 Địa chỉ: Thôn B, xã L, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ, ngày 08 tháng 01 năm 2020, Nguyễn Văn H đang ở nhà ở thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh H có gặp một người đàn ông không quen biết đi qua cửa nhà vác theo 02 bao tải trắng. Hùng có hỏi người đàn ông đó có đi xe ôm không. Người đàn ông đó nói thuê H chở 02 bao tải đựng pháo hoa đến nhà văn hóa thôn B, xã L, thành phố C, tỉnh H giao cho một người ở đó và sẽ trả với số tiền 1.000.000đồng. Do thấy lợi nhuận cao nên H đồng ý. H mượn xe của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1973, nơi cư trú: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh H (chị H không biết H mượn xe chở pháo), để 02 bao tải đựng pháo ở võng xe sau đó điều khiển đến nhà văn hóa thôn B, xã L. Khi H vừa đến khu vực nhà văn hóa thôn B, xã L thì bị lực lượng Công an thành phố C phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 bao tải đựng pháo, bên trong có 10 giàn pháo hoa, loại 36 quả và 10 giàn pháo, bên ngoài mỗi dàn được dán ni lông màu đỏ, 01 xe Yamahasirius, biển số 34C-04.583.

Ti bản kết luận giám định số 201/C09-P2 ngày 09/01/2020 của Viện k - Tổng cục C, Bộ C kết luận: Các mẫu vật ghi thu của Nguyễn Văn H gửi đến giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ(có chứa thuốc pháo và khi bị đốt có gây tiếng nổ), có tổng khối lượng là 14 Kg.

Ti Cáo trạng số 12/CT-VKSCL ngày 24/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H đã truy tố Nguyễn Văn H về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Tòa án: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời gian thử thách là 24 tháng đến 30 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho UBND xã L, thành phố C, tỉnh H giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về vật chứng: Không áp dụng. Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, VKSND thành phố C, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 18 giờ 45 phút ngày 08 tháng 01 năm 2020, tại khu vực nhà văn hóa thôn B, xã L, thành phố C, tỉnh H, Nguyễn Văn H có hành vi vận chuyển 14 kg pháo nổ cho một người đàn ông không quen biết để nhận số tiền 1.000.000đồng thì bị lực lượng Công an thành phố C, tỉnh H phát hiện bắt quả tang, nên đủ căn cứ xác định Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về pháo nổ, nhất là trong những năm qua Nhà nước luôn tuyên truyền, nghiêm cấm các hành vi buôn bán, tàng trữ, vận chuyển sử dụng các loại pháo. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự, an ninh, ảnh hưởng sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.Bị cáo đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì lợi nhuận vẫn cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng xem xét tới các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ sau: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi với hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Thêm nữa, bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng huân huy chương kháng chiến chống Mỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Quá trình bị cáo H thực hiện hành vi vi phạm pháp luật tại bản án này, bị cáo H bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc theo quyết định xử vi phạm phạt hành chính số 53/QĐ-XPHC ngày 14 tháng 01 năm 2020, H đã chấp hành xong. Do hành vi đánh bạc bị xử lý sau, không áp dụng tiền sự đối với bị cáo. Bị cáo H nhất thời phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và việc cho các bị cáo hưởng án treo, cải tạo tại địa phương không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C tại phiên tòa.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, không có tài sản riêng nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố C đã thu giữ của bị cáo H 14 kg pháo nổ. Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu và hủy bỏ là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS. Đối với chiếc xe máy Yamahasirius, biển số 34C-04.583 là tài sản của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1973, nơi cư trú: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh H, chị H không biết H sử dụng xe vào việc phạm tội nên không đặt ra xử lý với chị H và chiếc xe máy trả lại cho chị H là phù hợp với khoản 3 Điều 47 BLHS.

[6] Trong vụ án, H khai vận chuyển pháo cho một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ, qua điều tra chưa xác định được người đàn ông này là ai, cơ quan điều tra tách ra để xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của BLHS;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội "Vận chuyển hàng cấm". Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho UBND xã L, thành phố C, tỉnh H giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về hình phạt bổ sung: Không đặt ra giải quyết.

3. Về xử lý vật chứng: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của BLTTHS 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 23/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về