Bản án 36/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2020/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Đỗ N, tên gọi khác: S; sinh ngày 09/9/1990 tại Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp R, xã T, thành phố H, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Không (tại phiên tòa, bị cáo tự khai làm nghề mua bán); trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Duy K và bà Khưu Thị E; có vợ tên Lê Thị Hồng R, sinh năm 1985 và 03 con; tiền án: Không, tiền sự: có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị Công an phường C, thành phố H xử phạt 750.000 đồng theo Quyết định số 07/QĐ-XPVPHC ngày 05/3/2019; nhân thân: xấu; bị tạm giam ngày 10/9/2020. (có mặt)

Người làm chứng:

1. Nguyễn Văn K2; (có mặt).

2. Võ Thanh S2 (có mặt);

3. Đỗ Duy K3 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo nội dung bản Cáo trạng số: 42/CTr-VKSHT ngày 29 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang đã truy tố Đỗ N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như sau:

Khoảng 22 giờ, ngày 25/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố H nhận được tin báo của quần chúng nhân dân phát hiện Đỗ N cất giấu trái phép chất ma túy nên lực lượng Công an thành phố H mời N về trụ sở làm việc. Qua làm việc, Đỗ N đã khai nhận có cất giấu ma túy nhằm mục đích sử dụng và tự nguyện giao nộp 01 bịch nylon có rãnh gài, kích thước (3 x 4)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (là ma túy đá). Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành lập Biên bản bắt quả tang đối với Đỗ N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ vật chứng nêu trên. Quá trình điều tra, Đỗ N khai nhận, vào khoảng 12 giờ, ngày 25/8/2020, Đỗ N điện thoại cho một người không rõ họ tên, địa chỉ mua ma túy với giá 500.000 đồng, mục đích sử dụng cá nhân và Đỗ N đã lấy ra sử dụng được một ít. Số ma túy còn lại Đỗ N cất giấu trong gói thuốc JET để trong túi quần bên trái và đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố H;

Vật chứng trong vụ án:

1) 01 (một) bịch nylon kích thước (3 x 4) cm, có rãnh cài, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (là ma túy đá);

2) 01 (một) gói thuốc lá nhãn hiệu Jet, kích thước (9 x 5,3 x 2,2) cm (đã qua sử dụng).

Tại Bản kết luận giám định số 720/KL-KTHS ngày 31/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận như sau: (BL 35).

Chất rắn màu trắng chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,2465 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định:

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,2282 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số 720/2020.

Vật chứng nêu trên hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Kiên Giang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ N quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đỗ N phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy các vật chứng trong vụ án theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và chứng minh tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ, ngày 25/8/2020, tại Khu phố 3, phường C, thành phố H, lực lượng Công an thành phố H phát hiện Đỗ N tàng trữ, cất giấu ma túy mục đích sử dụng, tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 01 bịch nylon kích thước (3x4)cm có rãnh gài để trong 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Jet, kích thước (9 x 5,3 x 2,2)cm. Qua giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,2465 gam (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ). Hành vi của bị cáo N đã cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, cụ thể:

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ...".

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có đầy đủ năng lực nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo đã thực hiện hành vi xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Hành vi của bị cáo không những làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương mà còn gián tiếp gây nguy hại cho sức khỏe của bản thân và người khác khi sử dụng ma túy. Trên các phương tiện thông tin đại chúng thường tuyên truyền về tác hại của ma túy, cũng như Nhà nước cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy. Thế nhưng bị cáo vẫn bất chấp để thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy bị cáo rất xem thường pháp luật.

[3] Xét về nhân thân: Tài liệu về lý lịch thể hiện bị cáo có nhân thân xấu. Trước đây bị cáo từng có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị Công an phường C, thành phố H xử phạt 750.000 đồng theo Quyết định số 07/QĐ-XPVPHC ngày 05/3/2019 nhưng đến nay bị cáo vẫn chưa chấp hành đóng phạt.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi vi phạm. Tại phiên tòa, cha bị cáo cung cấp cho Hội đồng xét xử bảng Huân chương kháng chiến hạng ba của ông Đỗ Văn C (là ông nội của bị cáo) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chứng minh ông nội của bị cáo là người có công với cách mạng. Vì vậy, cần xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về áp dụng hình phạt: Xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo sao cho vừa đảm bảo tính giáo dục, vừa răn đe phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận và phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian đủ để cải tạo bị cáo thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,2282 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 phong bì có ký hiệu vụ số 720/2020; Một gói (bao) thuốc lá nhãn hiệu Jet, kích thước (9 x 5,3 x 2,2)cm (đã qua sử dụng).

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

- Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ N phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đỗ N 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

1) Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,2282 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số 720/2020;

2) Một gói (bao) thuốc lá nhãn hiệu Jet, kích thước 09cm x 5,3cm x 2,2cm (đã qua sử dụng).

Các vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H theo Quyết định chuyển vật chứng số 27/QĐ-VKSHT ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 02/11/2020 giữa đại diện Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

3. Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về