Bản án 36/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Yên Phương, huyện Y, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2019/HSST ngày 05/6/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐXXST-HS ngày 13/6/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân T, sinh năm 1979 tại Thôn An Nhân, xã YT, huyện Y, tỉnh N; nơi cư trú: Thôn An Nhân, xã YT, huyện Y, tỉnh N; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Văn Tr (đã chết), con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1947; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; vợ: Phạm Thị L sinh năm 1982; có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2008; tiền án: Ngày 12/9/2016 bị TAND huyện Y, tỉnh N xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", ngày 25/5/2018 chấp hành xong (Chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; BPNC: Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/5/2019 đến ngày 16/5/2019 chuyển tạm giam hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N.

Những người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Trung Th- Sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Thôn Thanh Tịnh, xã YL, huyện Y, tỉnh N.

Ông Trần Tiến D- Sinh năm: 1961.

Địa chỉ: Thôn Thanh Thủy 2, xã YL, huyện Y, tỉnh N.

Tại phiên tòa: Có mặt bị cáo, vắng mặt những người làm chứng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h30’ ngày 13/5/2019, tổ công tác Phòng CSĐT Công an tỉnh N phối hợp với BCA xã YL làm nhiệm vụ tại khu vực đường QL 37B thuộc thôn Thanh Thủy 2, xã YL, huyện Y, tỉnh N phát hiện nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác kiểm tra hành chính, quá T kiểm tra, nam thanh niên khai nhận là Nguyễn Xuân T, sinh năm 1979, trú tại thôn An Nhân, xã YT, huyện Y, tỉnh N. Kiểm tra, phát hiện thu trong túi áo ngực bên trái của T đang mặc 02 ống ni lông màu trắng dài khoảng 01 cm, bên trong đựng chất bột dạng cục màu trắng và 01 túi ni lông màu trắng KT(01x01)cm bên trong đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng. T khai nhận bên trong 02 ống ni lông là Heroin và bên trong 01 gói ni lông là ma túy đá, T vừa mua của người phụ nữ không quen biết với giá 400.000 đồng, mục đích T cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành niêm phong 02 ống ni lông màu trắng dài khoảng 01 cm, bên trong đựng chất bột dạng cục màu trắng, ký hiệu M1; 01 túi ni lông màu trắng KT (01x01)cm bên trong đựng chất rán dạng tinh thể màu trắng, ký hiệu M2 và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 461/GĐKTHS ngày 14/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận:

Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 (Hai) ống ni lông màu trắng dài khoảng 01 cm, hàn kín hai đầu, được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu M1: 0,162gam.

Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 (Một) túi ni lông màu trắng, kích thước khoảng (1x1)cm, được niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu M2: 0,225gam.

Về nguồn gốc gói ma túy Heroine có khối lượng 0,162 gam và Methamphetamine có khối lượng 0,225 gam, Nguyễn Xuân T khai mua với giá 400.000 đồng của một người phụ nữ ở trên trục đường thôn Bình Điền, xã YL, huyện Y, tỉnh N, T không biết tên, tuổi địa chỉ của người này. Do vậy trong quá T điều tra, cơ quan CSĐT Công an huyện Y không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Nguyễn Xuân T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 42/CT-VKS.YY ngày 03/6/2019 của VKSND huyện Y truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, không oan và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện VKSND huyện Y trình bày quan điểm luận tội giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 42/CT-VKS.YY ngày 03/6/2019 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự tuyên bố Nguyễn Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Xuân T từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giữ, ngày 13/5/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; bị cáo phải nộp án phí hình sự sư thẩm.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự ; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 0,121 gam Heroin và 0,180 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định cùng vỏ bao gói mẫu đang được lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh N.

Đối với người đàn bà bán ma túy cho T trong quá T điều tra, cơ quan CSĐT Công an huyện Y không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý. Nên đề nghị HĐXX không xem xét xử lý.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y tỉnh N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo đã được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay. Lời khai phù hợp với lời khai người làm chứng; biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu giữ trong quá trình điều tra, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/5/2019, tại khu vực đường quốc lộ 37B thuộc thôn Thanh Thủy 2, xã YL, huyện Y, tỉnh N, Nguyễn Xuân T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,162 gam Heroin và 0,255 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác cơ quan CSĐT Công an tỉnh N phối hợp với Ban công an xã YL bắt quả tang.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Ma túy là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe con người, làm băng hoại đến giá trị chuẩn mực đạo đức trong đời sống nhân dân. Hiện nay trên địa bàn huyện Y tệ nạn ma túy đang gia tăng, bị cáo là đối tượng nghiện hút, đã có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn vi phạm pháp luật. Vì vậy, hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 12/9/2016 bị cáo bị TAND huyện Y, tỉnh N tuyên phạt 30 tháng tù giam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 25/5/2018 chấp hành xong, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi môi trường xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời đáp ứng được công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà Đảng và Nhà nước đề ra.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy do vậy Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: cần tịch thu tiêu hủy 0,121 gam Heroin và 0,180 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định cùng vỏ bao gói mẫu.

[6] Đối với người bán ma tuý cho Nguyễn Xuân T tại trục đường thôn Bình Điền, xã YL, huyện Y, tỉnh N. Nguyễn Xuân T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ này nên không có căn cứ xác minh để xử lý. Nên HĐXX không đề cập xử lý.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 332 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố Nguyễn Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt Nguyễn Xuân T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giữ, ngày 13/5/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,121 gam Heroin và 0,180 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định cùng vỏ bao gói mẫu. (Các vật chứng có đặc điểm và số lượng đứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/6/2019 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Y và Chi cục thi hành án dân sự huyện Y).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Xuân T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Xuân T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-ST ngày 24/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện ý Yên - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về