Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 20/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 36/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 643/2017/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2017 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Anh T, sinh năm 1988; hộ khẩu thường trú tại: Ấp C, xã Đ, huyện T, tỉnh Tây Ninh; tạm trú tại: Ấp P, xã PĐ, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

Bị đơn: Anh Trương Thanh P, sinh năm 1985, địa chỉ cư trú: Ấp C, xã Đ, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 31 tháng 10 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Anh T trình bày:

Chị và anh Trương Thanh P chung sống từ năm 2007, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng cha mẹ chồng đến năm 2009 cất nhà ở riêng trên đất cha mẹ chồng cho. Từ tháng 10 năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và ly thân. Nguyên nhân do anh P không tin tưởng chị về tiền bạc, thường ghen tuông vô cớ. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh Trương Thanh P

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung tên Trương Phương V sinh ngày 18/11/2008, hiện đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 11 tháng 12 năm 2018 bị đơn anh Trương Thanh P trình bày:

Nhận thấy thống nhất lời trình bày của chị T về hôn nhân, về con chung, tài sản chung và nợ chung. Riêng về nguyên nhân mâu thuẫn thì vợ chồng thỉnh thoảng chỉ có cải vã với nhau ngoài ra không có mâu thuẫn gì khác. Nguyện vọng anh yêu cầu được đoàn tụ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn thực hiện đầy đủ về quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn chưa thực hiện đầy đủ về quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 xem xét quyết định:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Anh T.

- Về con chung: Giao chị T tiếp tục nuôi dưỡng con chung, ghi nhận chị T không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Bị đơn anh Trương Thanh P vắng mặt đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh P là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh P tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Theo kết quả xác minh, trong thời gian chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh P nghi ngờ chị T làm tiêu hao tài sản của vợ chồng nên anh P đánh và dùng lời nói xúc phạm chị T. Nay chị T yêu cầu ly hôn, anh P yêu cầu đoàn tụ. Tuy nhiên từ khi ly thân đến nay, anh P không có biện pháp để vợ chồng hàn gắn, anh P vắng mặt không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa. Qua đó cho thấy anh P không có thiện chí hàn gắn. Từ những cơ sở trên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ khẳng định mâu thuẫn giữa chị T và anh P là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về con chung: Cháu Trương Phương V, sinh ngày 18/11/2008 đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi ly thân đến nay chị T nuôi dưỡng con chung, cháu V có nguyện vọng được sống với mẹ nên cần giao cháu V cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu. Anh P được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

 [4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 [5] Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

 [6] Về án phí: Chị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Anh T được ly hôn với anh Trương Thanh P.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Phương V sinh ngày 18/11/2008 cho chị Nguyễn Thị Anh T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Trương Thanh P không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu.

Anh P được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Anh T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009369 ngày 13/11/2017 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng; chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. 

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 20/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:36/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về