Bản án 36/2017/HS-ST ngày 15/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 36/2017/HS-ST NGÀY 15/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2017/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2467/2017/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Lê Văn P, sinh năm 1981 tại tỉnh Bến Tre. Nơi cư trú số: 133/3 ấp AD, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre; CMND số: 327080851; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá: lớp 4/12; dân tộc: Kinh; con ông Lê Văn T: sinh năm: 1948 (sống) và bà Nguyễn Thị S: sinh năm: 1953(sống).

Từ nhỏ sống chung với gia đình, đi học đến lớp 4 thì nghỉ học, ở nhà phụ giúp gia đình và làm ăn sinh sống tại địa phương. Ngày 11 tháng 5 năm 2017, có hành vi trộm cắp nên bị khởi tố và cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 28 ngày 07 tháng 7 năm 2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại Tòa.

- Người bị hại: Nguyễn Văn H - SN: 1963, ĐKTT: ấp AD, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Phi B - SN: 1988, ĐKTT: Ấp TA, xã B, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Trần Văn H - SN: 1983, ĐKTT: ấp AD, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 11 tháng 5 năm 2017, anh Nguyễn Phi B (sinh năm 1988, ngụ ấp TA, xã B, huyện P, tỉnh Bến Tre) đem 13 bao thức ăn nuôi tôm thẻ chân trắng, hiệu Baccarat đến gửi ở trước hiên (thềm ba) nhà ông Nguyễn Văn H (sinh năm 1963), tọa lạc tại ấp AD, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre). Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi Lê Văn P uống rượu cùng anh Trần Văn H (ngụ cùng ấp) tại nhà của Lê Văn P, lúc này anh Trần Văn H ra về thì Lê Văn P đi bộ đến nhà anh H. Lê Văn P rủ anh Trần Văn H quay lại nhà Lê Văn P chơi nhưng anh Trần Văn H không đồng ý nên Lê Văn P quay trở về nhà. Khi về ngang nhà ông H (gần nhà anh H), Lê Văn P phát hiện số thức ăn nêu trên và thấy không có người trông giữ nên nảy sính ý định chiếm đoạt để sử dụng cho tôm của mình ăn. Liền ngay sau đó, Lê Văn P đến nơi để thức ăn, lần lượt vác 08 bao thức ăn đem về nhà cất giấu.

Đến sáng ngày 12 tháng 5 năm 2017, ông Nguyễn Văn H phát hiện thức ăn do anh Nguyễn Phi B gửi giữ tại nhà mình bị mất nên trình báo với cơ quan Công an. Qua xác minh, Cơ quan Công an mời Lê Văn P đến làm việc, Lê Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đồng thời giao nộp tài sản đã lấy trộm.

Vật chứng của vụ án được tạm giữ và qua định giá xác định giá trị tài sản như sau: 08 bao thức ăn tôm thẻ tăng trọng, nhãn hiệu Baccarat, màu đỏ trắng, trọng lượng mỗi bao 20kg, mã số GB693; có tổng giá trị là 4.640.000 đồng (giá 580.000 đồng/bao).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú đã trao trả 08 bao thức ăn nêu trên cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Phi B theo biên bản trao trả tài sản ngày 31 tháng 5 năm 2017.

Tại bản cáo trạng số 28/KSĐT-KT, ngày 10-8-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú đã truy tố bị cáo Lê Văn P về “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 15-9-2017. Về trách nhiệm dân sự: chủ sở hữu tài sản là anh Nguyễn Phi B đã nhận lại tài sản; người bị hại Nguyễn Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phi B không yêu cầu gì khác nên đề nghị Tòa không xem xét.

Bị cáo Lê Văn P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện giống như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo; thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và có yêu cầu xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Quá trình điều tra người bị hại Nguyễn Văn H có yêu cầu về trách nhiệm hình sự đề nghị giảm nhẹ cho bị cáo; về trách nhiệm dân sự không có yêu cầu gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phi B đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì.

Bị cáo Lê Văn P nói lời sau cùng: bị cáo đã biết lỗi mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạnh Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn P thừa nhận hành vi là xuất phát từ động cơ tư lợi cá nhân nên vào khoảng 21 giờ ngày 11 tháng 5 năm 2017, tại ấp AD, xã AT, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, Lê Văn P đã lén lút chiếm đoạt 08 bao thức ăn tôm thẻ tăng trọng, nhãn hiệu Baccarat, có tổng giá trị là 4.640.000 đồng của anh Nguyễn Phi B đang gửi ông Nguyễn Văn H quản lý.

[3] Vật chứng của vụ án được tạm giữ và qua định giá xác định giá trị tài sản như sau: 08 bao thức ăn tôm thẻ tăng trọng, nhãn hiệu Baccarat, màu đỏ trắng, trọng lượng mỗi bao 20kg, mã số GB693; có tổng giá trị là 4.640.000 đồng (giá 580.000 đồng/bao).

[4] Hành vi của bị cáo Lê Văn P đã đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

[5] Hành vi của bị cáo Lê Văn P là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện điều đó đã làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội và thể hiện tính xem thường pháp luật của bị cáo.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây ra.

[6] Tuy nhiên, xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: bị cáo Lê Văn P có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; trong quá trình điều tra và tại tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; quá trình điều tra người bị hại có yêu cầu xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, bị cáo có hai người ông là Lê Văn Sử và Lê Văn Phiển là liệt sỹ. Do đó đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ vào tính chất, mức độ hậu quả do hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Xét thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự nên không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội, nhưng để có thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo được tính răn đe, phòng ngừa chung cho cộng đồng cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo đồng thời giao bị cáo cho gia đình và Ủy ban nhân dân xã nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục bị cáo trong suốt thời gian chấp hành thử thách theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự.

 [8] Về trách nhiệm dân sự: chủ sở hữu tài sản là anh Nguyễn Phi B đã nhận lại tài sản; người bị hại Nguyễn Văn Hưởng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phi B không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn P phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Lê Văn P 06 (sáu) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là 15-9-2017.

Giao bị cáo Lê Văn P cho Ủy ban nhân dân xã An Thuận, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre giám sát giáo dục bị cáo trong suốt thời gian thử thách. Trường hợp trong thời gian thử thách nếu bị cáo Lê Văn P có thay đổi nơi cư trú thì thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: chủ sở hữu tài sản là anh Nguyễn Phi B đã nhận lại tài sản, người bị hại Nguyễn Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phi B không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án buộc bị cáo Lê Văn P nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Trong thời hạn mười lăm ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo được tính từ khi nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2017/HS-ST ngày 15/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về