TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 359/2020/HS-ST NGÀY 05/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 323/2020/HSST ngày 31 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 357/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020 đối với các bị cáo:
1.Trần Việt H, sinh ngày 15/6/2001 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 1 xã T, huyện K tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Trần Xuân Q (đã chết) và con bà Đinh Thị T, sinh năm 1963; tiền sự, tiền án: Không có.
Nhân thân: Ngày 26/5/2016, Tòa án nhân dân Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 175 (ngày 21/2/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, khi phạm tội bị cáo có độ tuổi từ trên 14 tuổi đến dưới 15 tuổi ).
Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 06/5/2020, có mặt.
2. Lê Đình H1, sinh năm 2000 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 4 L, xã Y huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; giới tính: Nam; con ông Lê Đình Đ, sinh năm 1962 và con bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1974; bị cáo có 03 chị em, bị cáo là thứ 2; tiền sự, tiền án: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 06/5/2020, có mặt.
3. Đoàn Khắc T, sinh ngày 03/03/2002 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 2 xã L, huyện K tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Đoàn Khắc K, sinh năm 1969 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972; bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là thứ 4; tiền sự, tiền án: Không có.
Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 06/5/2020, có mặt.
Bị hại: Anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1992; địa chỉ: 61/19/10A khu phố Đ1, phường B, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, có mặt.
Người làm chứng : Anh Trần Danh Đ, sinh năm 1999, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Các bị cáo Lê Đình H1, Trần Việt H, Đoàn Khắc T và người tên Hùng (không rõ nhân thân) là bạn bè quen biết, H và T ở cùng dãy trọ với bị hại Nguyễn Văn G tại địa chỉ 61/19/10A khu phố Đ1, phường B, Thành phố K, tỉnh Bình Dương.
Khoảng 14 giờ ngày 02/5/2020, anh G để xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu cam đen biển số 73D1 – 229.19 trước cửa phòng rồi vào trong phòng nằm ngủ, cửa khép hờ. Lúc này bị cáo H1 bàn với H, T và tên Hùng (không rõ nhân thân) lấy xe mô tô của anh G bán lấy tiền. Sau đó T lấy chìa khóa dắt xe mô tô của anh G ra ngoài dãy trọ để cho H điều khiển chở T đến khu vực cầu ông Bố, Thành phố Thuận An, đồng thời bị cáo H1 cùng với Hùng điều khiển xe mô tô chạy theo sau. H1 sử dụng điện thoại Samsung J6 màu vàng sim số 0962.360. 664 điện thoại cho Kỳ (không rõ nhân thân) để bán xe, sau khi xem xe các bên thống nhất trị giá xe 17.000.000 đồng. Có tiền H1 chia cho T và H mỗi người 3.500.000 đồng, chia cho Hùng 4.500.000 đồng, H1 được 4.500.000 đồng. Còn lại 1.000.000 đồng cả nhóm đi ăn, uống cà phê hết 400.000 đồng, H1 trả tiền mua bộ van phá khóa xe mô tô 600.000 đồng. Ngày 5/5/2020 anh G làm đơn trình báo việc bị cáo T cùng đồng phạm chiếm đoạt xe.
Vật chứng thu giữ: 01 cây đoản hình chữ T và 02 đầu đoản (bộ van phá khóa xe mô tô); 01 điện thoại Samsung J6 màu vàng có sim số 0962.360.664.
Kết luận định giá số 81/BB.ĐG ngày 15/5/2020 của Hội đồng định giá Thành phố Dĩ An kết luận: Xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Exciter 150 cm3, màu đen cam, biển số 73D1 – 229.19, trị giá 32.000.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn G yêu cầu các bị cáo T, H và H1 liên đới bồi thường trị giá chiếc xe với số tiền 32.000.000 đồng.
Cáo trạng số 355/CT – VKS ngày 30 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trần Việt H, Đoàn Khắc T, Lê Đình H1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:
+ Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Việt H từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù.
+ Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đoàn Khắc T từ 1 năm 3 tháng đến 1 năm 6 tháng tù.
+ Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Đình H1 từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo H, T và H1 liên đới bồi thường cho anh G số tiền 32.000.000 đồng Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy sim số điện thoại, đoản bẻ khóa. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động Bị cáo H, T, H1 không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án các bị cáo nói lời sau cùng. Xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.
Bị hại Nguyễn Văn G yêu cầu được bồi thường thiệt hại xe mô tô, về hình phạt các bị cáo đề nghị xet xử theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo H, T, H1: Căn cứ lời khai bị hại, người làm chứng, biên bản ghi lời khai, biển bản hỏi cung các bị cáo thể hiện khoảng 14 giờ ngày 02/5/2020 tại địa chỉ 61/19/10A khu phố Đ1, phường B, Thành Phố K, tỉnh Bình Dương các bị cáo Trần Việt H, Đoàn Khắc T, Lê Đình H1 đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150 cm3 biển số 73D1 – 229.19 của anh Nguyễn Văn G có trị giá 32.000.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo H, T và H1 đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 355/CT-VKS ngày 30/7/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo H, T, H1 không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo T, H1 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tình tiết trên được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu thể hiện việc đã bị xét xử và bị xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”, lần phạm tội này thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.
Bị cáo T, H1 có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự, nhất thời phạm tội.
[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù, các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại Nguyễn Văn G được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn do không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể từng bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò người thực hành.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Văn G yêu cầu các bị cáo H, T và H1 phải bồi thường trị giá xe mô tô 32.000.000 đồng. Yêu cầu này có căn cứ vì vậy được chấp nhận.
[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ điện thoại của bị cáo H1 do sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Đối với sim điện thoại, đoản bẻ khóa thu giữ cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Trong vụ án còn có người tên Hùng không rõ nhân thân cùng tham gia với các bị cáo chiếm đoạt xe của anh G, người tên Kỳ mua xe mô tô do các bị cáo chiếm đoạt mang bán. Công an Thành phố Dĩ An tách điều tra xác minh xử lý sau là phù hợp [7] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, bồi thường thiệt hại cũng như mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.
[8] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[9] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Trần Việt H, Đoàn Khắc T, Lê Đình H1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1.1 Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Trần Việt H 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù.
1.2 Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đoàn Khắc T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
1.3 Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Đình H1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù đối với bị cáo H, T, H1 tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 06/5/2020.
2. Các biện pháp tư pháp:
2.1 Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 584, Điều 587 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.
+ Buộc các bị cáo Trần Việt H, Đoàn Khắc T, Lê Đình H1 phải liên đới bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Văn G số tiền 32.000.000 đồng (ba mươi hai triệu đồng) Kể từ ngày anh Nguyễn Văn G có yêu cầu thi hành án, nếu các bị cáo chậm trả số tiền trên thì hàng tháng các bị cáo còn phải trả cho anh G khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2.2 Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Sam sung J6 màu vàng, số Imei 358.465.095.048.396; 3584.6609.5048.394.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 cây đoản hình chữ T; 02 đầu đoản, sim số 09623.606.64.
Theo biên giao nhận vật chứng ngày 31/7/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Các bị cáo Trần Việt H, Đoàn Khắc T, Lê Đình H1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và liên đới nộp 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 359/2020/HS-ST ngày 05/09/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 359/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về