TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 357/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH H
Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 180/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 158/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 130/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Chị P T D T, sinh năm 1980 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 23-9-2020)
Nơi cư trú: Tổ 10, ấp V L, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang.
2.Bị đơn: Anh T M H, sinh năm 1984 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Tổ 10, ấp V L, xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, tờ tự khai ngày 06-5-2020, nguyên đơn chị P T D T trình bày:
+Về hôn nhân: Chị và anh T M H kết hôn vào năm 2003, hôn nhân do quen biết, tự nguyện sống chung như vợ chồng, không tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 08 ngày 09-4-2004. Sau khi chung sống, vợ chồng thuê trọ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, vợ chồng về quê làm ăn sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 10 năm thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh H không lo làm ăn, không quan tâm gia đình, gần đây lại có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Từ tháng 8/2019, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay chị nhận thấy không còn tình cảm với anh H, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với anh T M H.
+Về con chung: Có 02 con chung tên T T T, sinh ngày 24-8-2004 và T L T, sinh ngày 02-02-2016. Hiện chị đang nuôi con. Nếu ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con.
+Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
+Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và 2 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh T M H, nhưng anh H vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Ngày 23-7-2020, Tòa án đến nhà để ghi lời khai của anh H, nhưng anh H vắng mặt tại nhà. Do đó, Tòa án không ghi được ý kiến của anh H.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23-7-2020, Bà N T H trình bày: Bà là hàng xóm nhà kế bên nhà H – T. H không lo làm ăn, có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài, về nhà đánh vợ. Khoảng một năm nay H – T sống ly thân cho đến nay. Theo bà H – T không thể đoàn tụ. H – T có hai con chung hiện T đang nuôi con, đứa lớn đi học ở L X.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:
1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.
2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung tiếp tục ổn định cho chị Trinh nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với nguyên đơn chị P T D T, bị đơn anh T M H, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa; nguyên đơn chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với nguyên đơn chị T và bị đơn anh H.
[2] Về hôn nhân: Chị P T D T và anh T M H kết hôn vào năm 2003, hôn nhân do quen biết, tự nguyện sống chung như vợ chồng, không tổ chức đám cưới. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang số 08 ngày 09-4-2004 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Chị T có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa chị T và anh H nhưng anh H không tham gia hòa giải. Tại biên bản lấy lời khai ngày 23-7-2020, bà N T H trình bày: Bà là hàng xóm, nhà kế bên nhà anh H, chị T. Anh H không lo làm ăn, có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài, về nhà đánh vợ. Khoảng một năm nay anh H, chị T sống ly thân cho đến nay. Theo bà anh H, chị T không thể đoàn tụ. Từ khi sống ly thân đến nay anh H không có thiện chí hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị T được ly hôn với anh H là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về con chung: Chị P T D T và anh T M H có 02 con chung. Chị T đang nuôi con, anh H không có ý kiến gì về việc nuôi con.
Xét thấy: Cháu T đã 14 tuổi, còn cháu T chỉ hơn 3 tuổi, hiện chị T nuôi 02 cháu chu đáo, cháu T được đi học. Ngày 23-7-2020, Tòa án đến nhà để ghi lời khai của cháu T, nhưng cháu T đi học ở L X, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của cháu T. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của 02 cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là phù hợp.
Chị P T D T và các thành viên trong gia đình chị T không được cản trở anh T M H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Anh T M H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của anh H theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị P T D T không yêu cầu anh T M H cấp dưỡng nuôi con. Anh H không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị P T D T trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh T M H không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, nguyên đơn chị P T D T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0006934 ngày 29-5-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[7] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; nguyên đơn chị P T D T, bị đơn anh T M H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự;
Các Điều 9, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,
Xử:
[1] Về hôn nhân: Chị P T D T được ly hôn với anh T M H.
Giấy chứng nhận kết hôn số 08 ngày 09-4-2004 của Ủy ban nhân dân xã V B, huyện C T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
[2] Về con chung: Chị P T D T được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên T T T, sinh ngày 24-8-2004 và T L T, sinh ngày 02-02-2016.
Chị P T D T và các thành viên trong gia đình chị T không được cản trở anh T M H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Anh T M H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị T có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của anh H theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về án phí: Nguyên đơn chị P T D T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0006934 ngày 29-5-2020 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị P T D T, bị đơn anh T M H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 357/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về ly hôn giữa chị T và anh H
Số hiệu: | 357/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về