Bản án 357/2018/HSST ngày 27/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 357/2018/HSST NGÀY 27/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/12/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 343/2018/HSST, ngày 05 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 341/2018/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 12 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Bích L; Tên gọi khác: L khùng.

Sinh ngày 24 tháng 3 năm 1969, tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

Nghề nghiệp: Bán vé số; Trình học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Con ông Nguyễn Bá V, con bà Hà Thị D (đều đã chết).

Bị cáo có chồng tên Huỳnh Hồng T (đã ly hôn), bị cáo có 01 con (đã chết).

Nhân thân: 

Ngày 08 tháng 01 năm 1993 bị Công an thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Quyết định tạm giữ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng và cố ý huỷ hoại tài sản công dân’’. Do chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, nên ngày 15/01/1993 được trả tự do, theo Quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn số: 14 ngày 15/01/1993 của Công an thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Ngày 24 tháng 8 năm 2009 bị Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xét xử về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, kết án 01 năm 03 tháng tù (tại Bản án số: 283/2009/HSST). Ngày 26 tháng 10 năm 2009 Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử Phúc thẩm về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, kết án 01 năm 03 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo (tại Bản án số: 327/2009/HSPT).

Ngày 17 tháng 6 năm 2010 bị Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xét xử về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, kết án 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án số: 327/2009/HSPT, buộc bị cáo phải chấp hành là 02 năm tù (tại Bản án số 138/2010/HSST). Bị cáo chấp hành án tại Trại giam Đắk Trung- Bộ Công an, đến ngày 10/7/2011 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương sinh sống, bị cáo đã được xoá án tích.

Ngày 06 tháng 3 năm 2012 bị Toà án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, kết án 01 năm 06 tháng tù (tại Bản án số 09/2012/HSST). Bị cáo chấp hành án tại Trại giam Đắk Trung- Bộ Công an, đến ngày 08/4/2013 chấp hành xong hình phạt tù về địa phương sinh sống, bị cáo đã được xoá án tích.

Bị cáo được tại ngoại theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Thị Bích L: ông Nguyễn Hồng S (tên gọi khác C) – Sinh năm: 1970 (em ruột bị cáo) Có mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Bích L: ông Võ Đình D – Luật sư Văn phòng Luật sư Đình Duy - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Bị hại: Anh Lò Văn T – Sinh năm: 1996 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số nhà 172 đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Bích L làm nghề bán vé số dạo. Vào khoảng 13 giờ ngày 04 tháng 6 năm 2018, L một mình đi bộ trên khu vực đường N, thành phố B, để bán vé số. Khi đi đến cửa hàng nội thất ô tô H, địa chỉ: 172 đường N, phường T, thành phố B, L thấy cửa trước của cửa hàng này mở, bên trong không có người trông coi tài sản, nên đã nảy sinh ý định vào bên trong cửa hàng tìm tài sản để trộm cắp. Sau đó, L đi vào bên trong cửa hàng thì thấy trên mặt bàn (bằng kính) tại phòng khách của cửa hàng có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), của anh Lò Văn T là nhân viên của cửa hàng đang cắm sạc pin. L liền đi lại lén lút rút dây sạc pin và lấy chiếc điện thoại này cất giấu vào trong túi áo L đang mặc, rồi đi ra ngoài đường tẩu thoát. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh T đã xem lại hình ảnh do Camera trong cửa hàng ghi lại và thấy hình ảnh của L, nên đã trình báo sự việc đến

Cơ quan điều tra, đồng thời giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 đĩa DVD ghi lại hình ảnh Nguyễn Thị Bích L thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Nguyễn Thị Bích L đã giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), là vật chứng của vụ án cho Cơ quan điều tra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 132/KLĐG ngày 05 tháng 7 năm 2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), số Imei: 355914/07/099945/6; trị giá: 6.400.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Lò Văn T. Ngày 12/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã Quyết định xử lý vật chứng, giao trả chiếc điện thoại trên cho anh T nhận quản lý, sử dụng. Sau khi nhận lại tài sản, anh T không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra do nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của Nguyễn Thị Bích L, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã Quyết định trưng cầu giám định tâm thần đối với Nguyễn Thị Bích L. Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 71/KLGĐTC ngày 11/8/2018 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây nguyên- Bộ Ytế, kết luận:

Đối tượng Nguyễn Thị Bích L (sinh năm 1969; trú tại: Tổ dân phố 1, phường T, thành phố B) có tiền sử chuẩn đoán, điều trị bệnh động kinh từ năm 2002;

Kết luận về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 04/6/2018 và hiện tại (tại thời điểm giám định) đối tượng bị bệnh động kinh (G40- ICD10);

Kết luận về khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 04/6/2018 (tại thời điểm giám định) và hiện tại đối tượng: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKS BMT ngày 03/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích L theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, q, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích L mức án từ 06 đến 9 tháng tù.

*/ Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 589 Bộ luật dân sự;

- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an Tp. Buôn Ma Thuột đã trả: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), cho anh Lò Văn T là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu quan điểm bào chữa: Luật sư đồng ý quan điểm của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích L về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo do bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi do vậy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật hình sự. Tài sản trộm cắp được không lớn và đã trả lại cho người bị hại nên đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Kết quả tranh luận và lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã đủ cơ sở pháp lý kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Bích L đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

 “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội do bị cáo đã thực hiện không chỉ xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi. Nhưng bị cáo nhận thức được tài sản của người khác luôn được pháp luật Nhà nước ta bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác đều bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị thích đáng. Song, do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, nên vào khoảng 13 giờ ngày 04 tháng 6 năm 2018, tại địa chỉ: 172 đường N, phường T, thành phố B, bị cáo Nguyễn Thị Bích L đã lén lút trộm cắp: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold) của anh Lò Văn T, thì bị phát hiện. Tài sản bị cáo đã trộm cắp trị giá 6.400.000 đồng. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi cố ý gây ra.

 [2] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Xét về nhân thân của bị cáo: Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn, tài sản do bị cáo trộm cắp đã được thu

hồi trả cho người bị hại; khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi; trong quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, q, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

 [3] Về hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình xét xử, tại phiên tòa bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với bị cáo là phù hợp. Cần chấp nhận.

 [4] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 589 Bộ luật Dân sự;

- Về xử lý vật chứng:

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an Tp. Buôn Ma Thuột đã trả01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu  SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), cho anh Lò Văn T là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Lò Văn T không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không đặt ra để giải quyết.

Do vậy, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần xử lý vật chứng là có căn cứ. Cần chấp nhận.

 [5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Bích L phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Các Điểm h, q, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích L 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 589 Bộ luật Dân sự;

- Về xử lý vật chứng:

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra công an Tp. Buôn Ma Thuột đã trả 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S7 màu vàng (Gold), là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Lò Văn T nhận quản lý, sử dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Lò Văn T không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không đặt ra để giải quyết.

*/ Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Bích L phải chịu 200.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 357/2018/HSST ngày 27/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:357/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về