Bản án 355/2018/HNGĐ-ST ngày 22/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 355/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22/11/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 284/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/9/2018, về “ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/10/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Nhật L, sinh năm: 1990, trú tại: Thôn P, xã Tam X, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam,

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá H, sinh năm: 1985, trú tại: Thôn Đ, xã Tam M, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Chị L có mặt, anh H xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 07/9/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Đỗ Thị Nhật L trình bày: Chị L và anh H tự nguyện tìm hiểu đến với nhau thành vợ chồng, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam M, huyện Núi Thành vào năm 2016. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H hay uống rượu về vợ chồng xung đột gây gỗ nhau. Nay tình cảm vợ chồng đã hết, chị L làm đơn đề nghị ly hôn anh H.

- Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ly L, sinh ngày 27/5/2018.

Nếu ly hôn chị L yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh Hùng cấp dưỡng nuôi con chung.

- Tài sản chung: Không có.

- về nợ chung và cho mượn nợ: Không có. Bị đơn anh H trình bày tại hồ sơ:

- Về điều kiện và thời gian kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn anh H thống nhất như chị L khai. Vợ chồng tự nguyện tìm hiểu đến với nhau có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam M, huyện Núi Thành vào năm 2016. Trong quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng không nghiêm trọng. Nay tình cảm vợ chồng vẫn còn, chị L yêu cầu ly hôn anh H không đồng ý.

- Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ly L, sinh ngày 27/5/2018.

Nếu ly hôn anh H yêu cầu được nuôi con.

- Tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung và cho mượn nợ: Không có.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng pháp luật; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật. Về nội dung, đại diện Viện kiểm sát đề nghị cho ly hôn giữa chị L và anh H; về con chung xét giao cháu Nguyễn Ly L cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung; tài sản chung không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết; nợ chung và cho mượn nợ không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Bá H vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên anh H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh H tự nguyện tìm hiểu đến với nhau thành vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam M, huyện Núi Thành vào năm 2016. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H là hợp pháp, được pháp luật công nhận.

[3] Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị L là do H hay uống rượu về nhà vợ chồng xung đột gây gỗ nhau. Anh H thống nhất có mâu thuẫn nhưng cho rằng mâu thuẫn không nghiêm trọng.

[4] Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải cho các bên quay về đoàn tụ nhưng chị L vẫn cương quyết ly hôn với lý do không khắc phục được mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn. Chị L cung cấp cho Tòa án giấy xác nhận mâu thuẫn của Ban nhân dân thôn P, xã Tam X, huyện Núi Thành, xác nhận vợ chồng chị L anh H không hợp nhau, thường xuyên xảy ra tranh cãi trong cuộc sống. Xét thấy cuộc sống hôn nhân của chị L và anh H nếu có kéo dài cũng không đạt được mục đích, hôn nhân không hạnh phúc. Do vậy chấp nhận yêu cầu của chị L, cho ly hôn giữa chị L và anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh H có một con chung tên Nguyễn Ly L, sinh ngày 27/5/2018. Chị L yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ly L, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung; anh H cũng yêu cầu được nuôi cháu Ly L. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Xét thấy, chị L và anh H không thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con, cháu Ly L dưới 36 tháng tuổi và chị L đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nên xét giao cháu Ly L cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. [6] Về tài sản chung: Không có.

[7] Về nợ chung và cho mượn nợ: Không có.

[8] Án phí HNGĐ sơ thẩm: 

Chị L phải chịu theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 5 Điều 27 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án ngày 30/12/2016.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị Nhật L và anh Nguyễn Bá H.

2. Về con chung: giao cháu Nguyễn Ly L, sinh ngày 27/5/2018 cho chị Đỗ Thị Nhật L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ly L thành niên đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom chăm sóc giáo dục con. Vì lợi ích của con, khi cần thiết theo yêu cầu của một bên hoặc của hai bên thì Toà án có thể quyết định cho thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung và cho mượn nợ: Không có.

5. Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Đỗ Thị Nhật L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp trước tại Chi cục thi hành án Núi Thành theo biên lai thu số 0002213 ngày 17/9/2018.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho các bên đương sự biết, chị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, anh H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 355/2018/HNGĐ-ST ngày 22/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:355/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về