Bản án 354/2021/HS-PT ngày 24/09/2021 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 354/2021/HS-PT NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 414 /2021/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của đại diện hợp pháp cho bị hại, đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/HSST ngày 29/ 6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

Bị cáo bị kháng cáo:

NGUYỄN THÀNH T (Tên gọi khác: B) - sinh năm: 1994 tại Bình Định; nơi cư trú: tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành D, sinh năm 1966 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1967; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 17/3/2015, bị TAND tỉnh Bình Định xử phúc thẩm phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp với 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” của Bản án số 38/2015/HSPT ngày 17/3/2015 của TAND tỉnh Bình Định. Tổng hợp hình phạt là 42 tháng tù. Đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Đặng Văn P (Chết) - Đại diện theo pháp luật kháng cáo:

1. Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1973 Trú tại: tỉnh Bình Định.

2. Chị Trần Thị Thanh T, sinh năm 1996;

3. Cháu Đặng Trần Nhật A, sinh năm ngày 11/3/2018 4. Cháu Đặng Trần Ngọc L, sinh ngày 14/12/2019 Cùng trú tại tỉnh Bình Định.

Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1973, trú tại: tỉnh Bình Định (theo Giấy ủy quyền ngày 27/01/2021) (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 21/12/2020, Nguyễn Thành T cùng với các bạn gồm: Nguyễn Phương N, Tô Ngọc A, Nguyễn Thị D đều trú tại xã M tổ chức uống rượu tại nhà của N. Đến khoảng 16h00’ cùng ngày, cả nhóm rủ nhau đến thị trấn B, huyện P đánh bida và sau đó đến uống bia tại quán Đ. Lúc này, Tô Ngọc A gọi điện thoại cho Đỗ Thành T đến nhậu cùng. Sau đó, T và T rủ nhau đánh bida thắng thua bằng tiền, mỗi cơ người thua sẽ chung 1,5 triệu đồng. Đến khoảng 19h00’ cùng ngày, cả nhóm đến quán bida K ở huyện P (do Nguyễn Văn M làm chủ) để đánh bida. Tại đây, T và T đánh bida, còn những người bạn ngồi uống bia và xem đánh bida. Trong lúc cả hai đánh bida thì Đỗ Thành Đ (em ruột của T) đến quán bida xem và thấy T thua nhiều tiền nên lùa bi không cho T đánh nữa, nhưng T không chịu và đòi chơi tiếp. Do đó, Đ gọi điện cho Đặng Thị Xuân V (là vợ của T) đến khuyên T nghỉ chơi đi về, nên T và T dừng lại không chơi nữa. Lúc này, T đánh bida thắng T khoảng 4,5 triệu đồng, nên T cho lại T 2 triệu đồng, rồi cả nhóm rời khỏi quán. Sau đó, vợ chồng T đi về nhà, Đ đi chơi với bạn, còn T rủ N, A, D đến quán B để tiếp tục ăn uống. Khi vào quán, T đi vệ sinh ngang qua khu vực bếp của quán thấy có một con dao Thái L (dài khoảng 25cm, bản rộng khoảng 2cm, cán đen, mũi nhọn bằng kim loại) nên lén lấy bỏ vào trong túi quần bên phải để sử dụng.

Trong lúc này, Đặng Văn P đi nhậu với bạn về và đến lấy xe máy của mình gửi ở quán bida K. Tại đây, P gặp và nghe Nguyễn Văn M (chủ quán bida) kể lại việc T đánh bida với T bị thua tiền. Do P chơi thân với anh em T, Đ và trước đó P có xích mích với T, nên P gọi điện cho T, Đ để hỏi chuyện, nhưng cả hai đều khuyên P bỏ qua. P tiếp tục gọi điện cho Đặng Hữu Đ1 hỏi xin số điện thoại của T và được Đ1 nhắn tin cho số. Sau đó, P gọi điện cho T hỏi: “Mày đang ở đâu tao tới?”, T nói cho P biết đang ngồi ở quán B. P điều khiển xe máy đến quán ngồi cạnh T và hỏi: “Sao mày nhậu mà không rủ tao? Lúc nãy mày nói gì thằng Đ?”; T nói không có gì thì P đứng lên gây gỗ đòi đánh T, nhưng được A, N can ngăn, nên không xảy ra việc đánh nhau. Còn D gọi điện báo cho T biết việc P đến tìm T gây sự về việc đánh bida ăn tiền của T. Do bị mọi người can ngăn không đánh được T, nên P quay lại quán bida K và gọi điện cho nhiều người nói mình “đụng chuyện” ở thị trấn B. Nguyễn Văn M thấy vậy nên hỏi P có chuyện gì, nhưng P không trả lời. Lúc này, Đỗ Thành Đ cũng đến quán bida K tìm người để đánh bida thì gặp P; P kể lại cho Đ nghe sự việc xảy ra tại quán B và cho rằng A không bênh vực P mà lại bênh vực cho T. Thấy P bức xúc với A, nên Đ nói: “Anh em không mà, có chuyện gì đâu, thôi để tao gọi nó tới nói chuyện”, với mục đích để giải hòa giữa P và A.

Sau khi P rời khỏi quán B, nhóm của T tiếp tục ngồi ăn uống. Đến khoảng 22h30’ cùng ngày, T gọi chủ quán tính tiền để đi về. Lúc này, A đi ra trước lấy xe máy thì nhận được điện thoại của Đ rủ đến quán bida K chơi nói chuyện. Nghĩ Đ gọi đến đánh bida tiếp nên A nói với T đến quán bida K chơi, rồi điều khiển xe máy chở D đi trước; còn T tính tiền xong thì nhờ N chở đến quán bida K. Khi A chở D đến trước quán bida K thì P xông đến dùng tay chỉ mặt A nói:

“Sao mày sống dở với tao? Bênh nó mà không bênh tao?”, A hất tay P ra, hai bên có lời qua tiếng lại. Lúc này, vợ chồng Đỗ Thành T cũng đến trước quán bida K do trước đó D có gọi điện cho T. Một lúc sau, N cũng chở T đến gần trước quán bida K thì T bước xuống xe. Khi T vừa xuống xe thì P xông đến dùng chân đạp T ngã xuống đường, rồi tiếp tục dùng tay, chân đánh T. Bị đánh bất ngờ, làm T bỏ chạy qua bên kia đường đối diện quán bida; P tiếp tục rượt đuổi theo để đánh T. Thấy vậy, Đ cũng chạy theo và Đ khai rằng chạy theo để can ngăn, nhưng T khai rằng Đ chạy theo và cùng P xông vào đánh T. Bực tức vì bất ngờ bị đánh, đã bỏ chạy để tránh né lại bị cả P và Đ đuổi theo đánh tiếp, nên T rút con dao Thái L trong túi quần ra, cầm dao bằng tay phải đâm trúng bàn tay trái của Đ; sau đó T đâm liên tiếp nhiều nhát vào người của P, gây thương tích cho cả hai. Bị T đánh trả và bị thương, nên P và Đ hoảng sợ bỏ chạy hướng vào quán bida K. Khi P chạy đến trước cửa quán thì ngã gục và được mọi người đưa đi cấp cứu nhưng P đã chết trên đường. Còn T chạy trốn khỏi hiện trường gây án. Trên đường chạy trốn đã làm rớt điện thoại di động và khi chạy đến đoạn cầu ông Dân thuộc thị trấn B, huyện P thì ném con dao gây án xuống cầu (Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được). Sau khi về nhà thì bị Công an đến đưa về trụ sở làm việc. Nguyễn Thành T bị P đánh đau ở vùng ngực, vùng đầu đã được Cơ quan điều tra đưa đến Trung tâm y tế huyện P kiểm tra nhưng không bị thương tích gì; còn Đỗ Thành Đ bị thương ở bàn tay trái được người thân đưa đến Bệnh viện Da liễu Trung ương Quy Hòa điều trị thương tích đến ngày 26/12/2020 xuất viện.

Đối với thương tích của Đỗ Thành Đ khi vào viện: Vết thương hở ngón I bàn tay trái; sau đó đã được phẫu thuật nối gân duỗi ngón I bàn tay. Ngày 20/01/2021, Đ có đơn từ chối giám định thương tích, không yêu cầu bồi thường và không yêu cầu xử lý hình sự đối với Nguyễn Thành T về hành vi gây thương tích cho mình.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 333/2020/PY-TT ngày 23/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận đối với Đặng Văn P như sau:

+ Dấu hiệu chính qua giám định:

- Xây xát vùng trán và môi trên.

- Dập niêm mạc môi trên.

- Vết thương vùng cổ trái tương ứng nếp cằm cổ (Kt:3,5x0,7cm).

- Tại vùng ngực trái tương ứng đường nách giữa cách hõm nách về phía dưới 09cm có vết thương nằm ngang (Kt: 5x2cm), bờ mép sắc gọn có độ vát da từ trên xuống dưới, góc trước vuốt, góc sau tù; tại vùng vết thương này tràn khí dưới da.

- Vết thương mặt ngoài 1/3 giữa cánh tay trái (Kt:14x5cm) thông với vết thương mặt trong 1/3 trên cánh tay trái (Kt:3,5x1cm).

- Tại mặt mu ngón I bàn tay trái có ba vết thương từ trên xuống dưới.

- Mổ mở rộng vết thương vùng ngực trái tương ứng đường nách giữa: Bầm tụ máu dưới da, vết thương thông vào trong làm đứt khoang liên sườn III, IV gây rách màng phổi trái tại thùy giữa xuyên qua nhu mô phổi, rách màng tim; mở màng tim có nhiều máu đông và không đông, vết thương làm thủng quai động mạch chủ, vết thủng dài 01cm.

+ Nguyên nhân chết: Suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp do vết thương thấu ngực thủng phổi, tim.

Với nội dung nêu trên tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2021/HSST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định.

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Giết người”.

- Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 22/12/2020.

[2] Về trách nhiệm dân sự và các biện pháp tư pháp khác:

[2.1] Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 584; Điều 585; Điều 591 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Tuyết N, chị Trần Thị Thanh T, cháu Đặng Trần Nhật A, cháu Đặng Trần Ngọc L số tiền 247.332.000 đồng, được trừ 70.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường trước, bị cáo còn phải bồi thường 177.332.000 đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành T có nghĩa vụ cấp dưỡng để nuôi cháu Đặng Trần Nhật A, sinh ngày 11/3/2018 và cháu Đặng Trần Ngọc L, sinh ngày 14/12/2019 (con của anh Đặng Văn P và chị Trần Thị Thanh T) mỗi cháu, mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 21/12/2020 cho đến khi hai cháu tròn 18 tuổi.

Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại.

Trong hạn luật định bà Nguyễn Thị Tuyết N, là đại diện hợp pháp cho bị hại kháng cáo bản án với nội dung yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo và tăng mức bồi thường về cấp dưỡng cho Đặng Trần Nhật A, sinh ngày 11/3/2018 và cháu Đặng Trần Ngọc L.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Tuyết N vắng mặt do vậy; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người kháng cáo theo thủ tục chung.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn xin kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tuyết N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tai phiên tòa hôm nay bà Nguyễn Thị Tuyết N là người kháng cáo, có đơn xin hoãn phiên tòa để mời luật sư bảo về quyền lợi ích hợp pháp cho Bà; Xét thấy bà N đã nhận được giấy triệu tập của Tòa án và lý do xin hoãn phiên tòa của bà không được chấp nhận, nên Hội đồng xét xử vắng mặt bà N theo quy định của pháp luật.

[2] Tối ngày 21/12/2020, sau khi nghe tin Nguyễn Thành T và Đỗ Thành T đánh bi da độ ăn thua bằng tiền, kết quả T đánh thắng T được 4,5 triệu đồng, nên Đặng Văn P tìm đến quán B gây sự đòi đánh T nhưng được mọi người can ngăn. Đến khoảng 22h30’ cùng ngày, sau khi nhậu xong, T cùng cả nhóm bạn quay lại quán bi da K chơi tiếp. Khi N vừa chở T đến quán thì lập tức P xông vào đạp T ngã xuống đường, rồi dùng tay chân đánh, đạp T, T bỏ chạy thì bị P đuổi theo đánh tiếp, lúc này, Đỗ Thành Đ cùng chạy theo P để đánh T nên T rút con dao Thái L trong túi quần ra, mà trước đó T lấy được ở quán B, T cầm dao bằng tay phải đâm trúng bàn tay trái của Đ rồi đâm liên tiếp nhiều nhát vào cổ và ngực của Đặng Văn P.

Hậu quả P tử vong do suy hô hấp, suy tuần hoàn cấp do vết thương thấu ngực thủng phổi, tim, còn Đỗ Thành Đ bị thương ở bàn tay trái nhưng có đơn từ chối không yêu cầu bồi thường và không yêu cầu xử lý hình sự đối với Nguyễn Thành T.

Với hành vi và hậu quả nêu trên, Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Giết người” được quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS là có căn cứ.

[3] Xét đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, gây bao nhiêu đau thương mất mát cho gia đình nạn nhân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Bị cáo Nguyễn Thành T có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định kết án về các tội “Cố ý gây thương tích”, “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, Bị cáo dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm liên tiếp nhiều nhát vào cổ và ngực của Đặng Văn P, là vùng trọng yếu của cơ thể nạn nhân nhằm tước đoạt tính mạng của nạn nhân P và chính nhát dao chí mạng đã gây thủng phổi, tim làm nạn nhân tử vong, hành vi của bị cáo là quyết liệt, cố ý thực hiện tội phạm đến cùng Bản án sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù theo khoản 2 Điều 123 BLHS là chưa nghiêm khắc, chưa đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, do vậy đơn kháng cáo của bà N yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ được chấp nhận.

[4] Xét kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường về trợ cấp nuôi con hàng tháng của bị hại; Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật để buộc bị cáo có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 02 cháu mỗi cháu một tháng là 1.000.000 đồng là phù hợp do vậy đơn kháng cáo của bà N không có cơ sở được chấp nhận. Đối với yêu cầu trên, sau này các cháu lớn nếu mức trợ cấp không còn phù hợp, thì người bị hại có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Tuyết N.Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2021/ HS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Giết người”.

- Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thành T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/12/2020.

[2] Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 584; Điều 585; Điều 591 BLDS.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Tuyết N, chị Trần Thị Thanh T, cháu Đặng Trần Nhật A, cháu Đặng Trần Ngọc L số tiền 247.332.000 đồng, được trừ 70.000.000 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường trước, bị cáo còn phải bồi thường 177.332.000 đồng.

Buộc bị cáo Nguyễn Thành T có nghĩa vụ cấp dưỡng để nuôi cháu Đặng Trần Nhật A, sinh ngày 11/3/2018 và cháu Đặng Trần Ngọc L, sinh ngày 14/12/2019 (con của anh Đặng Văn P và chị Trần Thị Thanh T) mỗi cháu, mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 21/12/2020 cho đến khi hai cháu tròn 18 tuổi.

[3] Về án phí: : Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bà Nguyễn Thị Tuyết N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 354/2021/HS-PT ngày 24/09/2021 về tội giết người

Số hiệu:354/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về