Bản án 354/2020/HSPT ngày 03/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 354/2020/HSPT NGÀY 03/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 267/HSPT ngày 23/6/2020 đối với bị cáo Võ Anh C do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 52/2020/HSST ngày 05/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Võ Anh C; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Số 83/1 Ven Sông Xáng, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề ngH: Buôn bán; Con ông Đỗ Phú T và bà Võ Hồng L; Hoàn cảnh gia đình: Có vợ là bà Nguyễn Thị Thúy N và 01 con (sinh năm 2015); Tiền án: Ngày 17/08/2007, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội “Giết người” theo Bản án số: 782/HSST, đã chấp hành án phạt tù, ra trại ngày 30/08/2010; Tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bào chữa:

Ông Nguyễn Thanh Long là luật sư của Văn phòng luật sư Long Cường thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Võ Anh C - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 05/3/2013, anh Nguyễn Xuân T1 lái xe ô tô hiệu Mercedes, biển số 79B-00660 chở anh Nguyễn Minh T2 đến khách sạn Phượng Hoàng, số 44 - 45 - 46 Hoàng Sa, phường Đa Kao, Quận 1 để thuê phòng nghỉ. Tại đây anh T1 giao xe cho nhân viên khách sạn Phượng Hoàng đem gửi cho anh Bùi Quang H tại bãi xe trước Lô B1 chung cư 1A - 1B Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, Quận 1. Đến khoảng 05 giờ, ngày 06/3/2013, anh Nguyễn Thế T3 (nhân viên giữ xe) phát hiện xe bị cạy cửa kính và mất trộm một số thiết bị, phụ tùng bên trong xe nên trình báo Công an phường Đa Kao, Quận 1 để làm rõ. Sau khi mất tài sản, anh H đến cửa hàng Mạnh Như, số 325 đường Nguyễn Công Trứ, phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 tìm mua lại số tài sản bị mất trộm thì gặp Nguyễn Văn M, M hẹn anh H sẽ tìm lại số phụ tùng bị mất. Sau đó, M điện thoại cho Trang Sĩ U để hỏi tìm phụ tùng như anh H yêu cầu, U điện thoại cho Võ Anh C xưng tên là “Tuấn” hỏi mua số phụ tùng xe ôtô hiệu Mercedes, biển số 79B-00660 đã bị mất trộm.

Khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 07/3/2013, Võ Anh C điện thoại báo cho Trang Sĩ U biết đã tìm được các thiết bị, phụ tùng xe ô tô hiệu Mercedes bị mất như yêu cầu đồng thời báo giá cho U, U báo lại cho Nguyễn Văn M, Mạnh báo giá cho anh H số tiền 70.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận đồng ý giá, anh H cùng anh Thôi đến cửa hàng Mạnh Như gặp Nguyễn Văn M đưa số tiền 68.000.000 đồng (anh H giữ lại 2.000.000 đồng để đưa lại cho người lắp ráp phụ tùng vào xe). Sau đó, M gặp U để lấy số thiết bị, phụ tùng trên. Đến khoảng 13 giờ 30 cùng ngày, để tránh bị bắt giữ, M thuê người đàn ông tên “Hải” (chưa rõ lai lịch, làm nghề chạy xe ôm) với giá 10.000 đồng chở số thiết bị, phụ tùng về cửa hàng Mạnh Như giao cho anh H và anh T2. Sau khi kiểm tra, xác định đúng là số phụ tùng của xe ô tô bị mất nhưng do M không trực tiếp giao nên anh H không đồng ý nhận số thiết bị, phụ tùng trên và yêu cầu Mạnh đến, Mạnh điện thoại cho vợ là Đỗ Thị N1 đến lấy lại số phụ tùng trên thì bị trinh sát Đội CSĐTTP về TTXH bắt giữ. Khoảng 15 giờ 10 phút, ngày 07/3/2013, Nguyễn Văn M đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đầu thú.

Ngày 08/3/2013, Công an Quận 1 bắt giữ Trang Sĩ U. Ngày 29/5/2013, Công an Quận 1 ra Quyết định nhập vụ án hình sự “Trộm cắp tài sản -Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” xảy ra tại trước lô B1 chung cư 1A-1B Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, Quận 1 theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 181 ngày 12/3/2013 của Công an Quận 1, phát hiện khoảng 05 giờ ngày 06/3/2013 với vụ án hình sự “Trộm cắp tài sản - Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại sân Chung cư Chợ Quán, phường 1, Quận 5 theo Quyết định khởi tố hình sự số 143 ngày 22/4/2013 của Cơ quan CSĐT Công an Quận 5, gọi chung là vụ án “Trộm cắp tài sản - Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Ngày 06/6/2013, do thời hạn điều tra đã hết nhưng chưa xác định được đối tượng thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”, Công an Quận 1 đã ra Quyết định tách vụ án hình sự, Quyết định tạm đình chỉ vụ án “Trộm cắp tài sản”.

Quá trình điều tra chuyên án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định các đối tượng Võ Anh C, Trần Minh T4, Dương Ngọc L đã thực hiện hành vi trộm cắp phụ tùng xe ô tô hiệu Mercedes, biển số 79B-00660 tại trước lô B1 chung cư 1A-1B Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, Quận 1 nên bàn giao hồ sơ cho Công an Quận 1 thụ lý theo thẩm quyền.

Theo Kết luận định giá tài sản số: 06/KL-HĐĐGTS, ngày 09/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Uỷ ban nhân dân Quận 1 đối với: Hộp động cơ (Mã số A 6111531591), Hộp điều khiển động cơ, Hộp điều khiển lạnh (A000446B428KZ), Hộp cầu chì, Bộ đồng hồ taplo (số 0335456032), Hai bộ công tắc chắn kính cửa có trị giá là 157.846.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 52/2020/HSST ngày 05/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh:

Tuyên bố bị cáo Võ Anh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Võ Anh C 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn còn giải quyết về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/5/2020, bị cáo Võ Anh C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà bị cáo Võ Anh C thực hiện đã nhận định: mức hình phạt 03 (ba) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Võ Anh C là thỏa đáng, không nặng, đúng tội danh. Bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để có thể xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Anh C mà giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Võ Anh C cho rằng bị cáo Cường đã được xóa án tích nên được xem là có nhân thân tốt, bị cáo là lao động chính trong gia đình, đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính 20.000.000 đồng, hiện nay đang phải nuôi con nhỏ và cha mẹ già, bản thân bị cáo có nhiều bệnh và bệnh càng ngày càng nặng, có trình độ học vấn quá thấp. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo C dưới khung hình phạt.

Đại diện viện kiểm sát: Trong vụ án này bị cáo chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm và không thể xem là bị cáo có nhân thân tốt. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thì bản án sơ thẩm không áp dụng như luật sư đã bào chữa. Đối với số tiền thu lợi bất chính thì nghĩa vụ bị cáo phải nộp để sung ngân sách Nhà nước. Gia đình bị cáo có nhiều anh em nên nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ già không phải một mình bị cáo phải thực hiện. Riêng bị cáo có nhiều bệnh tật thì bản án sơ thẩm đã xem xét và áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên đề nghị của mình.

Luật sư và đại diện Viện kiểm sát không tranh luận gì thêm và giữ nguyên ý kiến tranh luận.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Anh C khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận 1, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 1, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Võ Anh C thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 06/3/2013, tại bãi xe trước Lô B1 chung cư 1A-1B Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, Quận 1, Võ Anh C đã có hành vi lén lút trộm cắp phụ tùng xe ô tô hiệu Mercedes, biển số 79B-00660 gồm hộp động cơ, hộp điều khiển động cơ, hộp điều khiển lạnh, hộp cầu chì, bộ đồng hồ taplo, hai bộ công tắc chắn kính cửa, tài sản chiếm đoạt có trị giá là 157.846.000 đồng. Đối chiếu với quy định của pháp luật nên có căn cứ để xác định bị cáo C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết tội bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu là có căn cứ.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Võ Anh C kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C giữ nguyên nội dung kháng cáo. Kháng cáo của bị cáo C làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Võ Anh C là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, trong vụ án này tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại và bị hại cũng không yêu cầu bồi thường gì thêm, tài sản thiệt hại trong vụ án không lớn và đã được khắc phục nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo C. Ngoài ra, trình độ học vấn của bị cáo thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo là lao động chính trong gia đình, phải nuôi cha mẹ già và con nhỏ, bị cáo hiện nay đang mắc nhiều bệnh (hở van tim, tăng huyết áp, viêm gan siêu vi C…), hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra từ lâu (năm 2013) và từ đó đến nay bị cáo có cuộc sống ổn định, luôn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền đã chiếm đoạt nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không chấp nhận lời bào chữa của luật sư về việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình cho bị cáo C.

Từ những lý do trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Anh C, sửa bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Võ Anh C không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Anh C; sửa bản án sơ thẩm số: 52/2020/HSST ngày 05/5/2020 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Anh C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ghi nhận bị cáo đã nộp lại số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng tiền thu lợi bất chính (Theo Biên lai thu tiền số: AA/2016/0009701 ngày 28/7/2020 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Bị cáo Võ Anh C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 354/2020/HSPT ngày 03/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:354/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về