Bản án 354/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, TP.HCM

BẢN ÁN 354/2018/HS-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 332/2018/TLST-HS ngày 13/12/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 321/2018/QĐXXST-HS ngày 14/12/2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn R (T.); sinh năm: 1987; tại: Tiền Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: đường x, phường T, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn S; và bà: Thái Thị Thu H; vợ: Đinh Thị Ngọc H; có 02 con (sinh năm 2012, 2016); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày: 05/9/2018. (Có mặt)

- Bị hại: Chị Nguyễn Phương M, sinh ngày 31/8/2000, cư trú: đường B, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. (Vắng mặt)

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Anh Dương Văn H, sinh năm 1977. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 09 giờ ngày 05/9/2018, Nguyễn Văn R đi từ nhà trọ ở đường B, phường T, Quận Y, một mình đón xe buýt đi quận Thủ Đức. Khi đến trạm xe buýt trước siêu thị Coop-Xtra, số xyz Quốc lộ X, Khu phố a, phường L, quận Thủ Đức thì R xuống và ngồi chơi tại trạm xe buýt. Khoảng 13 giờ cùng ngày, chị Nguyễn Phương M đến Trạm chờ xe buýt trước Siêu thị Coop-Extra, R phát hiện trên tay chị M có cầm điện thoại hiệu Iphone 6 nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị M bán lấy tiền tiêu xài. Lợi dụng chị M không để ý, R đi bộ tới dùng tay trái giật chiếc điện thoại của chị M và bỏ chạy bộ vào Siêu thị Coop-Extra, chị M la “Cướp, cướp”, lúc này có anh Dương Văn H đang chạy xe mô tô trên đường nghe thấy nên đuổi theo, R thấy có người đuổi theo nên vứt điện thoại lại và chạy vào Siêu thị, anh H dừng xe nhặt chiếc điện thoại của chị M và tiếp tục đuổi theo bắt giữ được R giao cho Công an phường L lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Văn R đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản số 1891 ngày 10/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận: 01 điện thoại hiệu Iphone 6 32G có giá trị là 5.500.000 đồng.

Vật chứng vụ án: 01 điện thoại hiện Iphone 6 32G.

Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã trả lại chiếc điện thoại cho chị Nguyễn Phương M, chị M không yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

[2] Bản Cáo trạng số 07/CT-VKSTĐ ngày 07/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Văn R về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp giật tài sản” và áp dụng khoản 1 của Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, cùng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi, để xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 02 năm tù, phần dân sự đã giải quyết xong.

Bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng ăn năn hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn R phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo R đã có hành vi cướp giật tài sản của bị hại chị Nguyễn Phương M. Tài sản chiếm đoạt là 01 điện thoại hiệu Iphone 6 32G có giá trị là 5.500.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Văn R đã phạm vào “Tội cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại Điều 171 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì động cơ vụ lợi, đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của Nhà nước. Vì vậy cần xử lý bị cáo theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự với mức án nghiêm phù hợp với tính chất, hành vi, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi, phạm tội gây thiệt hại không lớn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại chị Nguyễn Phương M đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì khác, phần dân sự đã giải quyết xong.

[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn R phạm “Tội cướp giật tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 171, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn R 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/9/2018.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn R chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 354/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:354/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về