TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 352/2020/HS-PT NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 289/2020/TLPT-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020; do có kháng cáo của bị cáo Cao Thị L, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 03/03/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
* Bị cáo có kháng cáo:
Cao Thị L, sinh năm 1969 tại Thanh Hóa, giới tính: Nữ; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Làm ruộng; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; con ông Cao Văn C và con bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); bị cáo có chồng là Lê Văn T1 (đã chết); có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/8/2019 đến ngày 27/8/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo L: Bà Lê Thị Hoài T2, Luật sư Văn phòng luật tư vấn pháp luật Tấn P, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa, có mặt.
* Người bị hại không kháng cáo: Bà Lê Thị H, sinh năm 1975; Trú tại: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Cao Thị L và bị hại Lê Thị H nhà ở cạnh nhau; khảng 20 giờ ngày 24/8/2019, Cao Thị L đi về nhà mình thấy Lê Văn H1 (là em trai của Lê Thị H và bị bệnh tâm thần nên do bà H nuôi dưỡng) đang nằm ở hiên nhà mình, kêu đói bụng và H1 bảo L nấu cơm cho mình ăn; trong lúc đang nấu cơm thì nghe tiếng bà L1 nên L đã gọi bà L1 vào nhà mình và cho bà L1 biết việc H nuôi H1 nhưng không cho H1 ăn dẫn đến mình phải nấu cơm cho H1 ăn; bà L1 nghe xong đã sang nhà H chửi H; do bực tức nên bà H đã đi sang nhà L chửi bới, túm tóc, xô xát với L, sau đó được bà L1 can ngăn đưa H về nhà. Sau khi bà L1 về H tiếp tục sang nhà L chửi bới L.
Đến khoảng 21 giờ ngày 24/8/2019, bà H sang nhà L để đưa anh H1 về, khi đó anh H1 đang ngồi ăn cơm cùng L, giữa H và L tiếp tục lời qua tiếng lại với nhau; sau khi đưa anh H1 về do vẫn bực tức nên bà H quay lại nhà L mục đích để đánh L; khi bà H vào đến phòng khách của L thì L đã lấy một con dao nhọn ở bếp cầm trên tay đứng sẵn tại phòng khách; bà H đã túm tóc và nhận L xuống và đánh L, lúc này hai người đứng ở tư thế đối diện nhau, L hai tay cầm dao hướng mũi về phía bà H đâm một nhát trúng vào bụng dưới của bà H, bà H hai tay giữ hai tay của L đang cầm dao. Hai người dằng co con dao và dịch chuyển ra đến thềm hè thì bà H bị đâm nhát thứ hai; sau đó có bà Lê Thị X, bà Lê Thị M và anh Lê Văn T3 đến can ngăn đưa bà H đi bệnh viện điều trị vết thương. Đến 23 giờ cùng ngày Cao Thị L đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đầu thú và giao nộp con dao gây án.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của bà Lê Thị H thể hiện: Vùng thượng vị bên hạ sườn trái có vết thương rách da bờ mép sắc nhọn, kích thước (5 x 2)cm; vết thương đường trắng giữa rốn kích thước (6 x 6)cm, lộ ruột.
Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 623/2019TTPY, ngày 29/10/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Tại thời điểm giám định pháp y thương tích tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Thị H là 38%.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích số 753/2019/TTPY ngày 20/12/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa thể hiện:
Vùng thượng vị bên hạ sườn trái có vết thương rách da bờ mép sắc gọn, kích thước (5 x 2)cm do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc nhọn; làm tổn thương rách da, cơ, mô mềm. Đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng thượng vị sườn trái.
Vết thương đường trắng giữa rốn kích thước (6 x 4)cm, lộ ruột: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc hoặc vật có cạnh sắc nhọn; làm tổn thương rách da, có mô mềm. Gây tổn thương thủng ruột non 01 lỗ tại vị trí quay ruột non cách góc hồi manh tràng 1,5m; đã được phẫu thuật khâu lỗ thủng ruột non; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương và sẹo mổ xử lý vết thương thấu bụng vùng đường trắng giữa trên và dưới rốn, sẹo mổ dẫn lưu đường trên xương mu.
Tại thời điểm giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích: Không đủ chứng cứ khoa học và dữ liệu khách quan để xác định chính xác chiều hướng tác động và lực tác động của vật gây thương tích.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST, ngày 03/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định: Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 57 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Cao Thị L phạm tội “Giết người”. Xử phạt bị cáo Cao Thị L 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 24/8/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn buộc trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/3/2020 bị cáo Cao Thị L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bị cáo trình bày: Bản án sơ thẩm quy kết bị cáo về tội giết người là đúng, nhưng bị cáo không cố ý, chỉ cầm dao trong tay, trong lúc giằng co nên dao đã đâm vào người bị hại; bản thân bị cáo từ trước tới nay chưa có tiền án, tiền sự; luôn chấp hành tốt chính sách của nhà nước; hoàn cảnh khó khăn, sức khỏe yếu; hiện bị cáo rất ân hận. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, với mức án 06 năm tù là có phần nghiêm khắc. Bởi vì, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong vụ án này người bị hại có lỗi trước; tại phiên tòa phúc thẩm thấy rằng sức khỏe của bị cáo yếu, nên cần chấp nhận kháng cáo, giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu luận cứ bào chữa: Nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội về các tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, xét về thể lực thì người bị hại to khỏe hơn bị cáo nhiều; căn cứ lời khai của bị cáo và bị hại thì có căn cứ khẳng định bị cáo không có ý định đâm bị hại mà chỉ do giằng co nhau nên dao đã đâm vào người bị hại. Do đó, bị cáo chỉ phạm tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, không phạm tội giết người.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, cơ bản bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết, nhưng bị cáo cho rằng mình chỉ đâm người bị hại một nhát, còn nhát thứ hai là do giằng co nhau nên con dao đã đâm vào người bị hại. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm thấy phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, vật chứng được thu giữ, đặc biệt là các kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã có đủ cơ sở kết luận: Do trước đó bà H đã nhiều lần đến nhà bị cáo chửi bới, xô xát với bị cáo, nên khoảng 21 giờ ngày 24/8/2019 bà Lê Thị H tiếp tục sang nhà bị cáo chửi bới và hành hung bị cáo; do bức xúc bị cáo đã dùng dao nhọn đâm một nhát vào bụng bà H, sau khi bị đâm hai bên tiếp tục giằng co nhau nên bà H bị đâm nhát thứ hai, sau đó được mọi người can ngăn và đưa bà H đi điều trị; hậu quả bà H bị tổn hại 38% sức khỏe. Việc bị cáo đã dùng dao sắc, nhọn là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu trên cơ thể người bị hại rất có thể dẫn đến tử vong, bà H không chết là do được cấp cứu kịp thời. Do đó, cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội giết người là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan. Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội giết người là không có căn cứ.
[2] Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội nó đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, còn gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Xét giữa bị cáo và bị hại là em chồng chị dâu, nhưng trong cuộc sống hàng ngày không hòa thuận; trước lúc xẩy ra sự việc chính người bị hại đã bốn lần đến nhà bị cáo có những lời lẽ xúc phạm, thậm chí hành hung bị cáo dẫn đến bị cáo bức xúc; mặc dù đã được can ngăn nhưng bị hại vẫn ấm ức nên khoảng 21 giờ ngày 24/8/2019 bị hại đã đến nhà bị cáo tiếp tục gây sự, túm tóc, đánh bị cáo làm bị cáo không làm chủ được đã dùng dao có sẵn đâm vào bụng bị hại. Như vậy, trong vụ án này người bị hại có lỗi trước, nên cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy: Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, như: Sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú, tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã tác động với gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 10.000.000đ; bố bị cáo là thương binh, được tặng thưởng huân chương kháng chiến; người bị hại có một phần lỗi và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có nhân thân tốt, có hoàn cảnh khó khăn, nhưng xử phạt bị cáo mức án 06 năm tù là có phần nghiêm khắc. Bởi vì, bị cáo phạm tội chưa đạt, người bị hại chỉ bị thiệt hại 38% sức khỏe; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, sức khỏe yếu, hoàn cảnh khó khăn chồng mất sớm, nên cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.
[4] Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Thị L; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 03/3/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Cao Thị L 05 (năm) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo (ngày 24/8/2019).
Về án phí: Bị cáo Cao Thị L không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 352/2020/HS-PT ngày 16/07/2020 về tội giết người
Số hiệu: | 352/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về