Bản án 352/2017/HNGĐ-ST ngày 14/08/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 352/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 14 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 238/2017/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 94/2017/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Ửng A (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T (vắng mặt).

Cùng trú tại: Ấp H, xã I, huyện K, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 5 năm 2017 kèm theo các tài liệu, chứng cứ và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Bùi Văn Ửng A trình bày:

Trên cơ sở  quen biết, được sự đồng ý của gia đình ông Bùi Văn Ửng A và bà Nguyễn Thị T tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 14/10/2002 tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện K, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 06 năm. Đến năm 2008, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cải dẫn đến mất hạnh phúc. Vì vợ chồng không thể hàn gắn được tình cảm nên vào năm 2009 bà T dẫn 02 con chung bỏ về nhà cha mẹ ruột bà T và sống ly thân với ông A cho đến nay mà không trở về đoàn tụ. Ông A nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ông A yêu cầu được ly hôn với bà T. Về con chung, ông A và bà T có với nhau 02 người con chung tên Bùi Nguyễn Tấn P1 sinh ngày 19/12/2002 và Bùi Nguyễn Thành P2 sinh ngày 18/01/2008 hiện sống chung với bà T. Sau khi ly hôn, ông A đồng ý giao 02 con chung cho bà T tiếp tục được nuôi dưỡng, trường hợp bà T có yêu cầu cấp dưỡng thì ông A đồng ý. Về tài sản chung và nợ chung, ông A xác định vợ chồng không có tài sản chung và không nợ chung ai, ông A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt và không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông A cũng như giao nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai vắng mặt không có lý do vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày của ông Bùi Văn Ửng A cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận quan hệ pháp luật tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Tam Bình theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà sơ thẩm, bà Nguyễn Thị T đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bà T theo thủ tục chung.

[3]. Về hôn nhân: Ông A và bà T là vợ chồng hợp pháp, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Về nguyên nhân mâu thuẫn, ông A trình bày, do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cải dẫn đến mất hạnh phúc. Ông A và bà T đã có thời gian sống ly thân từ năm 2009 mà không trở về đoàn tụ. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T không giao nộp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông A cũng như giao nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Nên Tòa án không có cơ sở để xem xét bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà T theo quy định pháp luật. Căn cứ vào lời trình bày của ông A, có cơ sở kết luận đời sống chung giữa ông A và bà T không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết cho ly hôn giữa ông A và bà T.

[4]. Các vấn đề về con chung, tài sản chung và nợ chung: Xét lời trình bày của ông A xác định, ông A và bà T có với nhau 02 người con chung tên Bùi Nguyễn Tấn P1 sinh ngày 19/12/2002 và Bùi Nguyễn Thành P2 sinh ngày 18/01/2008 hiện do bà T nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, ông A đồng ý giao 02 con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, trường hợp bà T có yêu cầu cấp dưỡng ông A đồng ý. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bà T không có ý kiến về vấn đề con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng, cháu Tấn P1t và cháu Thành P2 không có ý kiến trình bày nguyện vọng được sống chung với ông A hoặc tiếp tục được sống chung với bà T. Ông A xác định, ông A và bà T không có tài sản chung và không nợ chung ai. Tất cả các vấn đề này, ông A không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Trong vụ án ly hôn nguyên đơn phải chịu án dân sự theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án. Do đó, ông A phải chịu án phí ly hôn số tiền 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án. Tuyên xử

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Bùi Văn Ửng A và bà Nguyễn Thị T.

2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Bùi Văn Ửng A phải nộp án phí ly hôn số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Số tiền này ông A được khấu trừ vào trong số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số No 0007977 ngày 18 tháng 5 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Vụ án được xét xử công khai. Có mặt nguyên đơn ông Bùi Văn Ửng A, vắng mặt bị đơn bà Nguyễn Thị T. Báo cho ông A có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án cấp trên xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Riêng bà T vắng mặt thì thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 352/2017/HNGĐ-ST ngày 14/08/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:352/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về