Bản án 35/2021/HS-ST ngày 24/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q , TỈNH Q

 BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 24 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q , tỉnh Q , xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Thị X, sinh ngày 02/03/1987 tại thị xã Đông Triều, tỉnh Q ; Nơi ĐKHKTT: Tổ 1, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q ; Nơi ở hiện tại: Số nhà 34, Tổ 2, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q ; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; có chồng là Đinh Tiến P, đã ly hôn; bị cáo có 02 con: con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10/02/2021, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Trần Thị Ngọc D, sinh năm 1997; địa chỉ: khu Đ, phường M, thị xã Q , tỉnh Q ; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00’ phút ngày 10/02/2021, Trần Thị X đi đến chợ Minh Thành, thuộc phường M, thị xã Q để mua đồ, khi đi qua cửa hàng bán hoa, thấy chị Trần Thị Ngọc D đang đứng mua hoa quay lưng ra ngoài, tại túi áo khoác bên trái của chị D có chiếc điện thoại di động, X nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại nên đã áp sát phía sau chị D, dùng tay phải móc vào túi áo khoác lấy trộm chiếc điện thoại của chị D rồi bỏ đi ra phía cổng chợ thì bị chị D phát hiện đuổi theo cùng mọi người bắt quả tang thu giữ chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu trắng, bàn giao cho Cơ quan công an giải quyết.

Kết luận định giá tài sản số 06 ngày 18/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Q , kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu trắng, dung lượng 64GB, đã qua sử dụng của chị Trần Thị Ngọc D trị giá 6.000.000đ (Sáu triệu đồng).

Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại Iphone X nêu trên cho bị hại.

Quá trình điều tra, Cơ quan công an còn thu giữ của bị cáo X01 điện thoại di động Iphone 6 đã qua sử dụng gắn sim số 0386.823066 và số tiền 1.234.000đ, xét thấy không liên quan đến việc phạm tội Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo.

Tại Bản cáo trạng số: 36/CT-VKSQY ngày 19/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố Trần Thị X về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thị X phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thị X từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn có nội dung đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã Q , Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q , Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trần Thị X khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã nêu; xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người chứng kiến; kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được làm rõ tại phiên tòa, đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 08 giờ 30’ phút ngày 10/02/2021, tại chợ Minh Thành thuộc khu Đ, phường M, thị xã Q , tỉnh Q , Trần Thị X đã có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu trắng, đã qua sử dụng, trị giá 6.000.000đ của chị Trần Thị Ngọc D, thì bị bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Thị X đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã nêu và viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, cần xử lý nghiêm đảm bảo công tác giáo dục và phòng ngừa.

Tuy nhiên trong khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo cơ hội được cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đảm bảo công tác giáo dục, phòng ngừa, và để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì khác, nên không đề cập xem xét.

[5] Vật chứng: không có.

[6] Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 260 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo Trần Thị X phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị X 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 24/5/2021.

Giao bị cáo Trần Thị X cho Ủy ban nhân dân phường M, thị xã Đ, tỉnh Q , để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự, nếu cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

- Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự;

Huỷ bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 07/2021/HSST-TA ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Q đối với Trần Thị X.

- Áp dụng khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Trần Thị X phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án tại trụ sở của chính quyền địa phương./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 35/2021/HS-ST ngày 24/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:35/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về