Bản án 35/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2020/HS-ST NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 39/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

LVH; sinh năm: 1984; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Vĩnh Sơn, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông L và bà H; có vợ là B và có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án, tại bản án số số 62/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa xóa án tích; nhân thân: 01 tiền sự ngày 16/9/2013 Công an phường Xuân La, quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 16/01/2020 đến ngày 22/01/2020 tạm giam. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Gia Lâm, Hà Nội. “Có mặt”.

Bị hại: Anh Nguyễn Văn Tuyến; sinh năm 1970; nơi cư trú: Thôn Giang Cao, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 16/01/2020, LVH đi xe máy BKS 35H3- 4453 và mang theo một vam phá khóa bằng kim loại, hình L; một chùm bảy chiếc chìa khóa đi từ phòng trọ tại Khoan Tế, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội đến khu vực Giang Cao, Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội mục đích xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi đến nơi, Hậu gửi xe máy ở ngoài rồi đi bộ vào một ngõ nhỏ thuộc thôn 2, Giang Cao, Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội thấy một chiếc xe máy điện của nhà anh Nguyễn Văn Tuyến dựng ở ngõ, xung quanh không có ai trông giữ. Hậu liền ngồi lên chiếc xe máy điện rồi dùng chìa khóa xe máy BKS 35H3- 4453 cắm vào ổ khóa điện của chiếc xe máy điện để mở khóa. Hậu lay ổ khóa vài lần thì ổ khóa điện bị bung ra. Hậu vứt ổ khóa xuống đất rồi cất chìa khóa vào túi áo khoác. Cùng lúc này gia đình anh Nguyễn Văn Tuyến, chị Nguyễn Thị Nhung và cháu Nguyễn Huy Quang phát hiện, hô hoán, Hậu bỏ chạy thì bị quần chúng nhân dân và công an bắt quả tang cùng vật chứng như đã nêu trên. Về nguồn gốc vam phá khóa hình L là do Hậu xin của 1 người không quen biết ở khu vực Long Biên, Hà Nội và 1 chùm bảy chìa khóa do Hậu nhặt được ở khu vực Đông Dư, Gia Lâm, Hà Nội không rõ cụ thể ở đâu.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A3; 01 ví da bên trong có số tiền 2.164.000 đồng; một chùm chìa khóa; một vam phá khóa; một chứng minh thư nhân dân.

Theo Kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 22/1/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Gia Lâm kết luận: 01 xe máy điện nhãn hiệu TOP – MEN, số khung: RPBYHTNBFHV 101389, xe cũ đã qua sử dụng có giá trị 7.500.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKS-GL ngày 18/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo LVH từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về dân sự không phải giải quyết.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy một chùm chìa khóa; một vam phá khóa. Trả lại bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A3; 01 ví da; một chứng minh thư nhân dân và số tiền 2.164.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; Kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 16/01/2020, tại thôn 2 Giang Cao, Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo LVH có hành vi trộm cắp 01 xe máy điện nhãn hiệu TOP – MEN, số khung: RPBYHTNBFHV 101389, xe cũ đã qua sử dụng có giá trị 7.500.000 đồng của anh Nguyễn Văn Tuyến. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản theo quy định của pháp luật chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo có 01 tiền sự theo quy định của pháp luật đã được xóa.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không đề nghị yêu cầu gì về dân sự nên không phải giải quyết.

[5]. Về xử lý vật chứng:

Đi với tài sản thu giữ của bị cáo gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A3; 01 chứng minh thư nhân dân và 01 ví da màu nâu bên trong có số tiền 2.164.000 đồng là tài sản của Hậu không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với số tiền cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đi một chùm chìa khóa và 01 vam phá khóa là công cụ phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Đi với 01 xe máy hiệu SU-SMASH, biển số 35 H3- 4435 qua điều tra xác minh xe máy đăng ký mang tên Mai Thị Hoàng Lan, sinh 1976, trú tại: Đàm Khánh, thị xã Tam Điệp, Ninh Bình. Khoảng tháng 12/2019 chị Lan bán xe máy trên cho anh Lê Văn Huấn sinh 1991, trú tại: Thọ Quang, Vĩnh Hảo, Bắc Quang, Hà Giang. Sau đó anh Huấn cho Hậu mượn xe máy trên để đi lại, anh Huấn không biết Hậu đi trộm cắp tài sản. Ngày 09/3/2020, Cơ quan CSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã trả chiếc xe máy trên cùng 01 chìa khóa xe máy màu đen kích thước 5 cm cho anh Huấn là đúng quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo LVH phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo LVH 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh, viền giữa màu đen đã qua sử dụng; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung A3, màu nâu, mặt màu đen, ốp màu ghi đã qua sử dụng; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên bị cáo; 01 ví da màu nâu; số tiền 2.164.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tch thu tiêu hủy một chùm chìa khóa gồm 07 chìa màu đen, chiều dài chìa khóa 7cm; một vam phá khóa chuôi màu cam đen, hình L, đầu inox, chiều dài 15cm, chiều rộng 6,5 cm.

Toàn bộ số vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 30/3/2020 giữa Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm và biên lai thu tiền 0001769 ngày 25/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:35/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về