Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28/09/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 200/2020/TLST - HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 31/08/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 25/2020/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 09 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị P, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Bản N, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

2. Bị đơn: Anh Lường Văn Q, sinh năm 1975.

Nơi ĐKNKTT: Bản N, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Hiện đang chấp hành án tại Đội 26, phân trại I, Trại giam Nà Tấu, xã Nà Tấu, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 23/7/2020 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, chị Lò Thị P (nguyên đơn) trình bày:

1. Về hôn nhân: Chị P và anh Q chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 11/1996, nhưng đến ngày 21/8/2006 mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Điện Biên. Chị P và anh Q kết hôn tự nguyện, không bị ép buộc, vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 01/2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị P phát hiện anh Q nghiện ma túy, gia đình cũng đã động viên anh Q đi cai nghiện, nhưng không được. Đến tháng 7/2014 thì anh Q bị bắt về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xét xử 07 năm 06 tháng tù, hiện tại anh Q đang chấp hành án tại Đội 26, phân trại I, Trại giam Nà Tấu, xã Nà Tấu, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai còn quan tâm tới ai nữa. Chị P xác định tình cảm giữa chị với anh Q không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Q.

Ngoài ra tại phiên tòa, chị P còn khai thêm trong thời gian anh Q đi chấp hành án, bản thân chị cũng bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên tuyên phạt 07 năm tù cũng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nguyên nhân do anh Q mua bán trái phép chất ma túy đã đổ lỗi cho cả chị, do vậy cả hai đều đi chấp hành án nên suốt 07 năm chị và anh Q không liên lạc và quan tâm gì tới nhau.

2. Về con chung: Chị P khai vợ chồng có 03 con chung Lường Thị Q1 - sinh ngày 05/5/1998, Lường Thị Đ - sinh ngày 20/01/2002 và Lường Thị T - sinh ngày 28/01/2005. Hiện cháu Q1 và cháu Đ đã thành niên và đi xây dựng gia đình nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu Tâm chưa đến tuổi thành niên nên chị có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Tâm cho đến khi thành niên và có khả năng lao động. Việc cấp dưỡng nuôi con chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, diện tích ruộng nương: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết; Nợ phải trả, nợ lấy về: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đã có công văn s 200/CV, ngày 24/07/2020 gửi Trại giam Nà Tấu để nhờ Trại giam Nà Tấu tng đạt thông báo thụ lý vụ án và hướng dẫn anh Lường Văn Q viết bản tự khai. Tại bản tự khai ngày 12 tháng 08 năm 2020 anh Q đã khai và công nhận:

1. Về hôn nhân: Anh Q và chị P đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vào ngày 21/8/2006. Kết hôn tự nguyện không ai bị ép buộc. Vợ chồng sinh sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì. Đến ngày 08/7/2014 hai vợ chồng đều bị bắt và bị truy tố với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến nay anh Q đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Nà Tấu, còn chị P đã chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống. Nay chị P làm đơn xin ly hôn, anh Q không đồng ý ly hôn.

2. Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung Lường Thị Q1 - sinh ngày 05/5/1998, Lường Thị Đ - sinh ngày 20/01/2002 và Lường Thị T - sinh ngày 28/01/2005. Hiện cháu Q1 và cháu Đ đã thành niên và đi xây dựng gia đình, cháu Tâm đã có công việc làm ổn định, để tự nuôi dưỡng bản thân.

3. Về tài sản: Tài sản riêng; tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về; diện tích đất ruộng nương: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh ngày 25/8/2020, chính quyền địa phương xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên cung cấp như sau:

Chị Lò Thị P và anh Lường Văn Q có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Điện Biên vào ngày 21/8/2006, kết hôn tự nguyện. Cả hai anh chị đều đăng ký hộ khẩu tại Bản N, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Trong quá trình chung sống với nhau chị P và anh Q có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh Q có sử dụng chất ma túy, tháng 07/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xét xử 07 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện anh Q đang chấp hành án tại Trại giam Nà Tấu. Chị P có làm đơn ra Tòa án huyện Điện Biên để đề nghị giải quyết ly hôn, vậy đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Chị P và anh Q có 03 con chung là Lường Thị Q1 - sinh ngày 05/5/1998, Lường Thị Đ - sinh ngày 20/01/2002 và Lường Thị T - sinh ngày 28/01/2005. Cháu Q1 và cháu Đ đã trưởng thành đã đi lấy chồng. Cháu Tâm mới được 15 tuổi, cháu đang ở và sống cùng với chị P. Việc giao cháu Tâm cho ai chăm sóc, nuôi dưỡng, cần xem xét vào điều kiện, hoàn cảnh phù hợp để đảm bảo quyền lợi cho cháu được phát triển tốt về mọi mặt. Đề nghị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xem xét giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Sau khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử s 41/2020/QĐXX - HNGĐ ngày 31/8/2020, anh Q không có đơn xin xét xử vng mặt, do vậy phiên tòa được mở vào ngày 16/9/2020 đã được hoãn và được n định lại vào 08 giờ 00 phút ngày 28/9/2020 theo quyết định hoãn phiên tòa s 25/2020/QĐST - HNGĐ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án:

- Về hôn nhân: Căn cứ Điều 51, 53, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị P, cho chị P được ly hôn với anh Đức.

- Về con chung:

Chị P và anh Q có 03 con chung là Lường Thị Q1, sinh ngày 05/5/1998, cháu Lường Thị Đ, sinh ngày 20/01/2002 và cháu Lường Thị T, sinh ngày 28/01/2005. Cháu Q1 và cháu Đ đã trưởng thành đã đi xây dựng gia đình, nên chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết. lấy chồng. Căn cứ Điều 69, 81, 82, 83, 84 luật hôn nhân gia đình 2014 đề nghị HĐXX giao cháu Lường Thị T cho chị P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi thành niên và có khả năng lao động. Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về; diện tích ruộng, nương: Chị P và anh Q không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147/BLTTDS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14: Đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” giữa chị Lò Thị P và anh Lường Văn Q thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên được quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 31/8/2020 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2020/QĐXX-HNGĐ và ngày 01/9/2020 Tòa án gửi Công văn số 1568/CV cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử nhờ Trại giam Nà Tấu tống đạt trực tiếp cho anh Lường Văn Q đồng thời hướng dẫn anh Q viết đơn xin váng mặt tại phiên tòa, nhưng đến ngày phiên tòa được mở vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 16/9/2020 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên không nhận được ý kiến và đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa của anh Q. Do vậy Tòa án nhân dân huyện Điện Biên ban hành quyết định hoãn phiên tòa số 25/2020/QĐST - HNGĐ ngày 16/9/2020 được mở lại vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 28/9/2020 và đã gửi cho anh Lường Văn Q. Ngày 28/9/2020 Tòa án nhân dân huyện Điện Biên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm nhưng anh Q vẫn không có ý kiến gì. Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Tại đơn xin ly hôn, tại các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án chị Lò Thị P và anh Lường Văn Q đều khai và công nhận vợ chồng có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vào ngày 21/8/2006. Kết hôn tự nguyện không ai bị ép buộc. Chị P cho rằng vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 01/2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị P phát hiện anh Q nghiện ma túy, gia đình cũng đã động viên anh Q đi cai nghiện, nhưng không được. Đến tháng 7/2014 thì anh Q bị bắt về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 07 năm 06 tháng tù, hiện tại anh Q đang chấp hành án tại Đội 26, phân trại I, Trại giam Nà Tấu, xã Nà Tấu, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Ngoài ra tại phiên tòa, chị P còn khai thêm trong thời gian anh Q đi chấp hành án, bản thân chị cũng bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên tuyên phạt 07 năm tù cũng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nguyên nhân do anh Q mua bán trái phép chất ma túy đã đổ lỗi cho cả chị, do vậy cả hai đều phải đi chấp hành án nên suốt 07 năm chị và anh Q không liên lạc và quan tâm gì tới nhau. Tuy nhiên phía anh Q lại cho rằng vợ chồng sống với nhau không có mâu thuẫn gì, ngày 08/7/2014 hai vợ chồng đều bị bắt và bị truy tố với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến nay anh Q đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Nà Tấu, còn chị P đã chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương sinh sống, nay chị P làm đơn xin ly hôn, anh Q không đồng ý ly hôn. Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa Tòa án đã giải thích, động viên để chị P suy nghĩ lại, hàn gắn hạnh phúc gia đình giữa chị và anh Q nhưng không có kết quả, chị P một mực cương Q1 xin ly hôn, vì tình cảm giữa chị và anh Q không còn nữa. Ngoài ra theo biên bản xác minh của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên tại nơi cư trú của chị P và anh Q cho thấy nguyên nhân rạn nứt dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh Q có sử dụng chất ma túy, tháng 07/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xét xử 07 năm 06 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hội đồng xét xử xét thấy chị P và anh Q đã sống ly thân được 07 năm, trong thời gian ly thân đã không còn quan tâm, thương yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau nữa, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy HĐXX xét thấy nguyện vọng xin ly hôn của chị P là phù hợp với qui định tại điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P.

[2.2]. Về con chung: Chị P và anh Q đều khai và công nhận vợ chồng có 03 con chung là: Lường Thị Q1 - sinh ngày 05/5/1998, Lường Thị Đ - sinh ngày 20/01/2002 - Lường Thị T, sinh ngày 28/01/2005. Hiện cháu Q1 và cháu Đ đã thành niên và đi xây dựng gia đình, cháu Tâm mới được 15 tuổi. Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với cháu Q1 và cháu Đ, cháu Tâm chưa đến tuổi thành niên nên chị có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Tâm cho đến khi thành niên và có khả năng lao động. Việc cấp dưỡng nuôi con không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh Q có ý kiến cho ràng cháu Tâm đã có việc làm ổn Đ và tự kiếm sống, nhưng anh Q không đưa ra quan điểm, nguyện vọng về việc nuôi con. Việc giao cháu Tâm cho ai chăm sóc, nuôi dưỡng cần xem xét về điều kiện, hoàn cảnh để cho cháu Tâm có cuộc sống ổn định và sự phát triển về mọi mặt của cháu được tốt hơn, anh Q hiện đang chấp hành án tại Trại Giam Nà Tấu do vậy không đủ điều kiện về vật chất và tinh thần để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Tâm. Ngoài ra tại bản tự khai của cháu Tâm, cháu có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Do vậy nguyện vọng của cháu Tâm và chị P là phù hợp với quy định của pháp luật được quy định tại Điều 69, khoản 1, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình. Nên HĐXX chấp nhận với nguyện vọng của cháu Tâm và chị P. Giao cháu Lường Thị T cho chị P chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên và có khả năng lao động và có tài sản để tự nuôi sống bản thân. Đối với hai cháu Q1 và Đ đã thành niên, đã đi xây dựng gia đình, nên HĐXX không đặt vấn đề giải quyết.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết việc đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.4]. Về quan hệ tài sản: Trong quá trình giải quyết vụ án chị P và anh Q đều thống nhất thỏa thuận: Tài sản riêng; tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về; diện tích ruộng, nương: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.5]. Về án phí: Căn cứ Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định thì chị Lò Thị P là dân tộc thiểu số cư trú tại thôn, xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quyết định số 900/QĐ-TTg, ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ, nên chị P được miễn án phí Dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228; Khoản 1 Điều 235; 264 và 267 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 70, 71, 72, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Lò Thị P được ly hôn với anh Lường Văn Q.

2. Về con chung: Giao cháu Lường Thị T, sinh ngày 28/01/2005 cho chị Lò Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cho đến khi thành niên và có khả năng lao động, có tài sản để tự nuôi mình hoặc cho đến khi có thay đổi khác.

Việc cấp dưỡng nuôi con chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở và có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản: Tài sản riêng; Tài sản chung; Nợ phải trả; nợ lấy về; diện tích đất ruộng nương: Chị P và anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị Q1 số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định thì chị Lò Thị P là dân tộc thiểu số cư trú tại thôn, xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quyết định số 900/QĐ-TTg, ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ, nên chị P được miễn án phí Dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/09/2020). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về