Bản án 35/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức N, sinh năm 1961 tại L. Nơi cư trú: Thôn J, xã O, huyện T, thành phố L; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức L, sinh năm 1939 và bà Đinh Thị L, sinh năm 1938; có vợ là Bùi Thị H, sinh năm 1961 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Nguyễn Đức U, sinh năm 1957 tại L. Nơi cư trú: Thôn E, xã O, huyện T, thành phố L; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 01/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức S (đã chết) và bà Trương Thị Ư, sinh năm 1933; có vợ là Đinh Thị B, sinh năm 1959 và có 04 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

3. Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1975 tại L. Nơi cư trú: Thôn J, xã O, huyện T, thành phố L; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức L, sinh năm 1939 và bà Lê Thị L, sinh năm 1950; có vợ là Đinh Thị H, sinh năm 1979 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

4. Đinh Khắc A, sinh năm 1963 tại L. Nơi cư trú: Thôn E, xã O, huyện T, thành phố L; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Khắc N (đã chết) và bà Bùi Thị B, sinh năm 1940; có vợ là Đinh Thị H, sinh năm 1967 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

5. Nguyễn Văn P, sinh năm 1971 tại L. Nơi cư trú: Thôn J, xã O, huyện T, thành phố L; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Đinh Thị G (đều đã chết); có vợ là Đinh Thị M, sinh năm 1971 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

6. Nguyễn Đức L, sinh năm 1939 tại L. Nơi cư trú: Thôn J, xã O, huyện T, thành phố L; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T và bà Đinh Thị M (đều đã chết); có vợ là Đinh Thị L, sinh năm 1938 và có 08 con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19 tháng 01 năm 2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 16 tháng 01 năm 2019 Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ và Nguyễn Đức L đến nhà Nguyễn Đức N ở thôn J, xã O, huyện T, thành phố L để thăm mẹ Nguyễn Đức N bị ốm. Sau khi thăm hỏi Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Nguyễn Văn P và Đinh Khắc A rủ nhau chơi đánh bạc dưới hình thức đánh chắn được thua bằng tiền và đặt vấn đề mượn nơi ở của Nguyễn Đức N để làm nơi đánh bạc đồng thời nhờ Nguyễn Đức L chia bài, sau khi chơi xong người nào thắng sẽ trả tiền công chia bài cho Nguyễn Đức L nhưng không nói rõ số tiền cụ thể, Nguyễn Đức L và Nguyễn Đức N đồng ý. Nguyễn Đức N lấy 02 bộ bài chắn, 01 bát sứ để xuống chiếu cói đã trải sẵn trên mặt bể nước phía sau nhà cho Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Nguyễn Văn P và Đinh Khắc A đánh bạc. Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Nguyễn Văn P và Đinh Khắc A thống nhất quy định tỉ lệ được thua như sau: Người chơi nào “ù suông” thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền 30.000 đồng, người chơi nào “ù tôm” thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 40.000 đồng, người chơi nào “ù lèo” thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 50.000 đồng, người chơi nào “ù tám đỏ” hoặc “ù bạch định” thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền là 90.000 đồng; nếu “ ù mười chắn” hoặc “ù kính tứ chi” thì mỗi người chơi phải trả cho người ù số tiền 200.000 đồng. Nguyễn Đức L chia bài cho Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Nguyễn Văn P và Đinh Khắc A đánh bạc. Khi đám bạc chơi được khoảng 10 phút thì Nguyễn Văn P hỏi vay Nguyễn Đức N số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc, Nguyễn Đức N đồng ý và cho Nguyễn Văn P vay số tiền 1.000.000 đồng. Khi tham gia đánh bạc Nguyễn Đức U mang theo 13.740.000 đồng, bỏ ra 2.740.000 đồng để đánh bạc, Nguyễn Đức Đ mang theo 2.000.000 đồng để đánh bạc, Đinh Khắc A mang theo 1.460.000 đồng để đánh bạc. Nguyễn Văn P không mang theo tiền, Nguyễn Văn P đã vay của Nguyễn Đức N 1.000.000 đồng để đánh bạc. Đám bạc chơi đến 13 giờ 30 phút cùng ngày thì bị Công an huyện T kết hợp với Công an xã O phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: Thu tại chiếu bạc số tiền 6.300.000 đồng, 01 chiếu cói, 01 bát sứ , 02 bộ bài chắn, mỗi bộ 100 lá bài; thu giữ trên người Nguyễn Đức U số tiền 11.000.000 đồng, Đinh Khắc A số tiền 900.000 đồng, Nguyễn Đức N số tiền 24.700.000 đồng, Nguyễn Đức L số tiền 1.755.000 đồng. Nguyễn Đức L chưa nhận được tiền công chia bài.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKSTN ngày 04 tháng 4 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố L truy tố các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố L.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố L trình bày lời luận tội đối với các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị kết tội các bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ, trừ cho các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, o khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Giao các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L cho Ủy ban nhân dân cấp xã O, huyện T, thành phố L để giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 7.200.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc; tịch thu tiêu hủy 01 chiếu cói, 01 bát sứ, 02 bộ bài chắn, mỗi bộ 100 lá bài. Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Đức L và bị cáo Nguyễn Đức U.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và công bố công khai tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận ngày 16 tháng 01 năm 2019 các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đã có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh chắn được thua bằng tiền tại nơi ở của Nguyễn Đức N tại thôn J, xã O, huyện T, thành phố L với tổng số tiền dùng đánh bạc là 7.200.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Đức N không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng đã có hành vi chuẩn bị công cụ dùng vào việc đánh bạc, cho các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đánh bạc tại nơi ở của mình và cho Nguyễn Văn P vay số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc với tổng số tiền dùng đánh bạc là 7.200.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Đức L không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng đã có hành vi chia bài cho các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đánh bạc với mục đích thu lợi với tổng số tiền dùng đánh bạc là 7.200.000 đồng. Do đó các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L đã phạm tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố L truy tố và đề nghị kết tội các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L về tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng điều luật.

[3] Xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tính chất, mức độ tham gia phạm tội, nhân thân của từng bị cáo và quyết định hình phạt:

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo Nguyễn Đức L còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đây là vụ án đồng phạm có nhiều người tham gia nên cần xem xét tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt. Trong vụ án này các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đều là người thực hành tích cực nên vai trò của các bị cáo là ngang nhau. Bị cáo Nguyễn Đức N không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng là người chuẩn bị các công cụ dùng đánh bạc, cho các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đánh bạc tại nơi ở của mình và cho Nguyễn Văn P vay tiền để đánh bạc nên xác định bị cáo phạm tội với vai trò là người giúp sức tích cực, cần áp dụng mức hình phạt ngang với các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P. Bị cáo Nguyễn Đức L không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng có hành vi chia bài cho các bị cáo khác đánh bạc nhằm mục đích thu lợi nên bị cáo giữ vai trò là người giúp sức, có vai trò thấp nhất trong vụ án và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng mức hình phạt thấp hơn các bị cáo khác trong vụ án.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; tính chất, mức độ tham gia phạm tội và nhân thân của từng bị cáo; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức N và Nguyễn Văn Lán phạm tội nghiêm ít trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Vì vậy Hội đồng xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội, áp dụng Điều 36 của Bộ luật Hình sự xử cho các bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương; giao các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức U và Nguyễn Đức L cho Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L để giám sát, giáo dục theo đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố L tại phiên tòa là đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.Các bị cáo Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức N đã bị tạm giữ từ ngày 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 nên thời gian tạm giữ được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật Hình sự, cứ 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Đức L phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập để sung quỹ nhà nước. Xét các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức L không có nghề nghiệp; các bị cáo Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đều là lao động tự do, không có nguồn thu nhập ổn định nên miễn việc khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức L không có nghề nghiệp; các bị cáo Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P đều là lao động tự do, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xác định số tiền 7.200.000 đồng thu trong người các bị cáo và trên chiếu bạc xác định là tiền sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 01 chiếu cói, 01 bát sứ, 02 bộ bài chắn, mỗi bộ 100 lá bài là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Đức U và Nguyễn Đức L là người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm nên căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Đức U và bị cáo Nguyễn Đức L, mỗi bị cáo được miễn nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Trong vụ án này Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T còn thu giữ trên người Nguyễn Đức U số tiền 11.000.000 đồng, Nguyễn Đức N số tiền 24.700.000 đồng và Nguyễn Đức L số tiền 1.755.000 đồng. Quá trình điều tra xác định Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức L không sử dụng số tiền trên vào mục đích đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại cho Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức L là đúng quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 36, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ 03 ngày (từ 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019) quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn còn lại là 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức U 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ 03 ngày (từ 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019) quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn còn lại là 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Đ 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ 03 ngày (từ 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019) quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn còn lại là 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ 03 ngày (từ 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019) quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn còn lại là 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Xử phạt bị cáo Đinh Khắc A 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ 03 ngày (từ 16 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019) quy đổi thành 09 ngày cải tạo không giam giữ, thời hạn còn lại là 11 tháng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s, o khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 36 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức L 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức U, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P và Nguyễn Đức L cho Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, thành phố L giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 7.200.000 đồng (Bảy triệu hai trăm nghìn đồng) thu trong người các bị cáo và trên chiếu bạc (Theo biên lai thu tiền số 0000796 ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố L). Tịch thu tiêu hủy 01 chiếu cói đã qua sử dụng, 01

bát sứ đã qua sử dụng, 02 bộ bài chắn, mỗi bộ 100 cây đã qua sử dụng (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố L).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Đức N, Nguyễn Đức Đ, Đinh Khắc A, Nguyễn Văn P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Đức U và Nguyễn Đức L, mỗi bị cáo được miễn nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về