Bản án 35/2019/HS-ST ngày 11/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 11/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2019/HSST ngày 24 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2019/QĐXXST-HS ngày 26/02/2019 đối với bị cáo:

Trần Trường S; giới tính: Nam; sinh ngày 17/5/1995; nơi cư trú: Tổ 31, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần Văn G, sinh năm 1963 (được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhì) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1966; gia đình có 02 con, bị can là con thứ hai; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/12/2018 đến ngày 11/12/2018 chuyển tạm giam đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình, bị cáo bị trích xuất có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Minh D, sinh năm: 1986, trú tại: Tổ 07, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

- Người chứng kiến:

1. Anh Đặng Hoàng Gia Đ, sinh năm 1999, trú tại: Tổ 27, phường X, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

2. Ông Phạm Mạnh H, sinh năm 1950, trú tại: Tổ 33, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 08/12/2018, bị cáo S đi bộ từ chỗ ở ra khu vực tổ 01, phường P, thành phố T mục đích mua ma túy về bán kiếm lời. Đến nơi, bị cáo S gặp và mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ 05 túi ma túy đá với giá 1.500.000 đồng. Bị cáo nhận ma túy cất vào túi áo trong bên trái đang mặc rồi đi tìm người mua ma túy để bán. Đến khoảng 16 giờ 10 phút cùng ngày, bị cáo S đang đứng tại đường Đ, tổ 13, phường K, thành phố Thái Bình thì có anh Trần Minh D đi xe ôm của anh Đặng Hoàng Gia Đ (anh Đ không biết việc D thuê xe ôm đi mua ma túy) đến hỏi bị cáo S mua 400.000 đồng ma túy đá. Anh D đưa cho bị cáo 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, bị cáo S nhận tiền cất vào trong túi áo trong bên trái đang mặc đồng thời lấy ra 01 túi ma túy đá đưa cho anh D. Anh D nhận ma túy cất vào túi quần bên phải thì bị tổ công tác Công an tỉnh Thái Bình đến yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Phạm Mạnh H, anh D tự giác giao nộp từ túi quần bên phải 01 túi nilon trong suốt bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt. Anh D khai là ma túy đá vừa mua được của bị cáo S với giá 400.000 đồng để sử dụng cho bản thân (tổ công tác niêm phong ký hiệu M1). Bị cáo S tự nguyện lấy từ túi áo trong bên trái giao nộp cho tổ công tác 04 túi nilon trong suốt, bên trong đều chứa các hạt tinh thể trong suốt. Bị cáo S khai là ma túy đá mua về nhằm mục đích bán kiếm lời (tổ công tác niêm phong ký hiệu M2) và số tiền 400.000 đồng, bị cáo S khai là tiền vừa bán ma túy cho D mà có. Sau đó tổ công tác yêu cầu bị cáo S, anh D, anh Đ và mời người chứng kiến cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Công an phường K để làm việc. Tại đây, tiến hành kiểm tra người bị cáo Sơn, thu tại túi quần bên phải của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ. Kiểm tra người anh D và anh Đ không phát hiện thu giữ gì. Kiểm tra chiếc xe mô tô biển số 17B3-072.74 do anh Đ điều khiển không phát hiện, thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Trường S tại tổ 31, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 416/KLGĐ-PC09 ngày 09/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

+ Mẫu vật gửi giám định, ký hiệu M1 thu của Trần Minh D là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0860 gam (không phẩy không nghìn tám trăm sáu mươi gam).

+ Mẫu vật gửi giám định, ký hiệu M2 thu của Trần Trường S là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,9252 gam (không phẩy chín nghìn hai trăm năm mươi hai gam).

Cáo trạng số 22/CT-VKSTP ngày 22/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Trần Trường S về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng khoản 1, khoản 5 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38; điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Trường S mức án từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2018. Phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ để sung vào ngân sách nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 400.000 đồng được niêm phong trong phong bì ghi: “Vật chứng thu giữ trên người Trần Trường S” thu giữ của bị cáo Trần Trường S.

+ Trả lại bị cáo Trần Trường S 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng điều 331, điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Trần Trường S đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 50 phút ngày 08/12/2018 tại trụ sở Công an phường K, thành phố T (bút lục số 15 đến 18); các biên bản tạm giữ đồ vật, biên bản niêm phong vật chứng lập ngày 08/12/2018 (bút lục số 19 đến 23); bản kết luận giám định số 416/KLGĐ-PC09 ngày 09/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 31); bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Minh D (bút lục số 83 đến 90); biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là anh Đặng Hoàng Gia Đ và ông Phạm Mạnh H (bút lục số 91 đến 98). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 10 phút ngày 08/12/2018, tại khu vực đường Đ, tổ 13, phường K, thành phố T, tổ công tác Công an tỉnh Thái Bình bắt quả tang bị cáo Trần Trường S có hành vi bán trái phép 01 túi ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0860 gam cho anh Trần Minh D với giá 400.000 đồng. Ngoài ra bị cáo Trần Trường S còn có hành vi tàng trữ trái phép 0,9252 gam Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: Tội “Mua bán trái phép chất ma túy”: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV-AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội. Do bị cáo bán ma túy mục đích thu lời bất chính nên cần phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Trần Trường S có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ của bị cáo được tặng thưởng Huân chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo S khai mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không quen biết ở khu vực tổ 01, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. Đối với số tiền 400.000 đồng đã thu giữ của bị cáo, xét thấy đây là tiền do bị cáo bán ma túy mà có nên cần tịch thu để sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Các vấn đề khác:

[7.1] Đối với anh Trần Minh D có hành vi mua ma túy của bị cáoS để sử dụng cho bản thân, do khối lượng ma túy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên ngày 12/12/2018, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh D bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.

[7.2] Đối với anh Đặng Hoàng Gia Đ điều khiển xe máy biển số 17B3-072.74 chở anh D, anh Đ được anh D thuê chở xe ôm, không biết việc anh D đi mua ma túy, không quen biết anh D và bị cáo Sơnên Cơ quan điều tra không có hình thức xử lý và không quản lý xe máy của anh Đ là phù hợp.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38; điều 50; điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106; điều 135; điều 136; điều 331; điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 21; điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về tội danh: Bị cáo Trần Trường S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Trường S 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Trường S 5.000.000đ (năm triệu đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 416/KLGĐ-PC09.

3.2. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 400.000 đồng được niêm phong trong phong bì ghi: “Vật chứng thu giữ trên người Trần Trường S” thu giữ của bị cáo Trần Trường S.

3.3. Trả lại bị cáo Trần Trường S 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng đã cũ nhưng giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 22/01/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Trường S phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/3/2019. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HS-ST ngày 11/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về