Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2019; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị G (L), sinh năm 1977; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1973; xin vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Ấp C, xã G B, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Phạm Thị G trình bày:

Chị và anh T chung sống với nhau vào năm 1998, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã G B. Sau khi cưới, vợ chồng sống chung với cha mẹ anh T, sau đó vợ chồng xây nhà ra riêng tại ấp C, xã G B khoảng 10 năm nay. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T ghen tuông nên thường xuyên uống rượu say về chửi mắng chị G và đập phá đồ đạc trong nhà.

Chị nhiều lần khuyên anh T thay đổi nhưng không có kết quả, vợ chồng tự ly thân từ đầu năm 2019 đến nay dù vẫn sống chung nhà. Từ khi ly thân, chị và anh T không có ai đặt vấn đề đoàn tụ. Khi biết chị nộp đơn xin ly hôn, anh T có kêu chị rút đơn ly hôn nhưng chị không đồng ý.

Nay chị yêu cầu được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên: Nguyễn Minh C, sinh ngày 20-5-2000 đang đi du học ở nước ngoài và Nguyễn Bảo N, sinh ngày 17-11-2009 hiện đang sống với vợ chồng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; cháu C đã trưởng thành, có khả năng tự lao động sinh sống được nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:

Nhận thấy, anh T thừa nhận lời trình bày của chị G về thời gian chung sống, có đăng ký kết hôn, thời gian ly thân, con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng. Vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong việc làm ăn. Ngoài ra, anh thấy chị G thường nghe điện thoại của người nào đó, nhưng khi anh hỏi thì chị G chỉ nói là khách hàng. Do nghi ngờ và nghĩ chị G không thật lòng, anh buồn nên hay uống bia và vợ chồng gây gỗ nhau.

Nay anh đồng ý ly hôn với chị G vì anh đã nhiều lần năn nỉ chị G đoàn tụ cùng anh nhưng chị G kiên quyết ly hôn.

Về con chung: Cháu Nguyễn Minh C, sinh ngày 20-5-2000 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động sinh sống được nên không yêu cầu giải quyết. Đối với cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 17-11-2009 có nguyện vọng theo ai thì người đó nuôi, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình xem xét quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị G yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Cháu Nguyễn Minh C, sinh ngày 20-5-2000 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết. Giao chị G được quyền nuôi dưỡng cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 17-11-2009. Ghi nhận chị G không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị G và anh T chung sống với nhau vào năm 1998, có đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã G B. Năm 2018, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và tự sống ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Nay chị G yêu cầu ly hôn và anh T cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy, chị G và anh T thuận tình ly hôn là hoàn toàn tự nguyện nhưng anh T vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị G được ly hôn anh T theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Cháu Nguyễn Minh C, sinh ngày 20-5-2000 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết. Chị G có yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 17-11-2009; anh T trình bày con theo ai người đó nuôi; mặt khác, cháu N cũng có nguyện vọng theo sống với chị G. Vì vậy, có cơ sở giao chị G được quyền nuôi dưỡng cháu N là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận chị G không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị G và anh T không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị G được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Cháu Nguyễn Minh C, sinh ngày 20-5-2000 đã trưởng thành, có khả năng tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết. Giao chị Phạm Thị G được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Bảo N, sinh ngày 17-11-2009.

Ghi nhận chị G không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Phạm Thị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016739 ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị G đã nộp đủ án phí.

5. Báo cho chị G biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về