Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái , tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 258/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52 2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1981; vắng mặt.

Bị đơn: Anh Phạm Ngọc K, sinh năm 1983; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn C, xã A, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện; bản tự khai; các tài liệu có trong hồ sơ nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Phạm Ngọc K đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã A, huyện T, tỉnh Y vào ngày 05/3/2007 trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu. Quá trình chung sống vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm. Anh K thường xuyên đánh đập, đe dọa chị H. Vợ chồng đã tự hòa giải, hai bên gia đình đã khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn vợ chồng không khắc phục được. Đến đầu năm 2019 mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân không quan tâm đến nhau. Chị H xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh K.

Về con chung: Chị H và anh K có 02 con chung là cháu Phạm Ngọc H1, sinh ngày 06/7/2009 và cháu Phạm Ngọc H2, sinh ngày 26/9/2010. Chị H xác định chưa có chỗ ở, không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên chị H có nguyện vọng để anh K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con. Chị H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản: Chị H, không yêu cầu Toà án giải quyết Theo bản tự khai; các tài liệu có trong hồ sơ anh Phạm Ngọc K trình bày:

Về hôn nhân: Anh K thống nhất với chị H về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng. Anh K xác định mâu thuẫn vợ chồng là do lỗi của anh K đánh chửi chị H dẫn đến vợ chồng đã ly thân từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Anh K đã xin lỗi chị H và đi đón chị H nhiều lần nhưng chị H không về chung sống cùng anh K. Anh K xác định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn. Anh K đề nghị Tòa án giải quyết để vợ chồng về đoàn tụ.

Về con chung: Anh K thống nhất với ý kiến chị H vợ chồng có 02 con chung. Nếu ly hôn nhất trí ý kiến của chị H.

Về chia tài sản: Anh K, không yêu cầu Toà án giải quyết

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Bị đơn là anh Phạm Ngọc K có hộ khẩu thường trú tại thôn C, xã A, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Đây là vụ án về tranh chấp “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

Nguyên đơn chị Phạm Thị H và bị đơn anh Phạm Ngọc K có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Phạm Thị H và anh Phạm Ngọc K có đăng ký kết hôn vào ngày 05/3/2007 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Yên Bái (nay là phường A, thành phố Y, tỉnh Yên Bái) là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên đánh cãi chửi nhau, vợ chồng sống ly thân không quan tâm đến nhau. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án không tiếp tục hòa giải và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh K. Quá trình giải quyết vụ án anh K xác định nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng lỗi là do anh K đánh chửi chị H, anh K không còn biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh K đã trầm trọng, đời sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

[3]. Về con chung: Chị H và anh K có 02 con chung là cháu Phạm Ngọc H1, sinh ngày 06/7/2009 và cháu Phạm Ngọc H2, sinh ngày 26/9/2010. Hội đồng xét xử xét thấy cháu H1 và cháu H2 cùng có nguyện vọng được chung sống cùng chị H và anh K. Tuy nhiên, hiện cháu H1 và cháu H2 ở ổn định cùng anh K. Mặt khác, anh K cũng có nguyện vọng để anh K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con. Do vậy, môi trường sống của cháu H1 và cháu H2 không cần thiết phải thay đổi, để cháu H1 và cháu H2 có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường. Cần giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay, giao cháu H1 và cháu H2 cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.

[4].Về chia tài sản: Chị H và anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5].Về án phí và quyền kháng cáo: Đương sự phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Phạm Thị H được ly hôn anh Phạm Ngọc K.

2. Về con chung:

- Giao cháu Phạm Ngọc H1, sinh ngày 06/7/2007 và cháu Phạm Ngọc H2, sinh ngày 26/9/2010 cho anh Phạm Ngọc K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cho đến khi cháu H1, cháu H2 đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ và số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0004973 ngày 09/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H, anh Phạm Ngọc K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Tng hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 29/08/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về