Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử công khai vụ án thụ lý số 377/2019/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thanh B, sinh năm: 1979 (Có mặt).

Địa chỉ thường trú: khu V, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn S, sinh năm: 1970 (Có mặt).

Địa chỉ thường trú: Khu V, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh B trình bày:

Chị và anh Phạm Văn S chung sống với nhau từ năm 2005 có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào ngày 20/10/2005. Quá trình chung sống đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên gây gỗ, cãi vã nhau có một số lần xảy ra xô xát. Tháng 8/2018 chị đã nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long Thành giải quyết ly hôn. Nhưng sau đó vì chị muốn tạo điều kiện cho anh S có cơ hội sửa chữa khuyết điểm nên chị đã rút đơn để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên từ thời gian đó đến nay vợ chồng chị vẫn không hàn gắn đoàn tụ được, vợ chồng chị đã ly thân từ tháng 4/2018 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ được nên chị xin được ly hôn với anh Phạm Văn S.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung tên Phạm Vũ Kim N, sinh ngày 15/11/2007 và cháu Phạm Vũ Quỳnh G, sinh ngày 12/3/2010, hiện 02 cháu đang sống chung với chị. Trường hợp ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang làm trưởng phòng thanh lý ở công ty Hwaseung Vina, thu nhập khoảng 25.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Phạm Văn S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất với lời khai chị B về thời gian xây dựng gia đình và đăng kí kết hôn. Sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống có hạnh phúc. Đến khoảng năm 2016 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và chị B có mối quan hệ với người thứ ba bên ngoài. Trong thời gian mâu thuẫn thì vợ chồng có một số lần gây gổ, cãi nhau. Anh xác định hiện nay vợ chồng anh vẫn sống chung nhà chứ không ly thân. Nay chị B xin ly hôn anh tại Tòa án thì anh không đồng ý ly hôn vì anh vẫn còn tình cảm với chị B.

Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung tên Phạm Vũ Kim N, sinh ngày 15/11/2007 và cháu Phạm Vũ Quỳnh G, sinh ngày 12/3/2010. Hiện 02 cháu đang sống chung với vợ chồng. Trường hợp ly hôn anh đồng ý giao 02 con cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Từ khi thụ lý, quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng là đúng theo quy định pháp luật.

Về đường lối giải quyết vụ án: Chứng cứ có tại hồ sơ thể hiện chị B và anh S là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trung Dũng, TP.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào ngày 20/10/2005 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian sinh sống vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn. Do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nhiều lần vợ chồng có xô xát lẫn nhau. Vào tháng 8/2018 chị đã nộp đơn xin ly hôn nhưng sau đó được tòa án hòa giải tạo cơ hội cho vợ chồng đoàn tụ. Nhưng hiện nay tình cảm vợ chồng không thay đổi được nên xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm giữa hai bên không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cho chị B ly hôn với anh S.

Về 01 con chung: Có 02 con chung là Phạm Vũ Kim N, sinh ngày 15/11/2007 và cháu Phạm Vũ Quỳnh G, sinh ngày 12/3/2010.

Sau ly hôn chị B có nguyện vọng nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng. Theo nguyện vọng của các cháu được sống với mẹ vì mẹ chăm sóc nuôi dưỡng tốt nên áp dụng Điều 81, 82, , 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 giao Ngân và cháu Giang cho chị B chăm sóc nuôi dưỡng, tạm thời không đặt ra vấn đề cấp dưỡng đối với anh S.

Tài sản chung: Anh, chị tự giải quyết, nên không xem xét. Nợ chung: không có.

Án phí: Áp dụng Nghị Quyết 326/2014/UBTVQH ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu , nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa Án chị B phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp ly hôn. Bị đơn anh Phạm Văn S có hộ khẩu thường trú và đang sinh sống tại thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Thành.

[2]. Về nội dung: Chị Vũ Thị Thanh B và anh Phạm Văn S có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào ngày 20/10/2005. Quá trình chung sống do tính tình vợ chồng không hòa hợp nên thường xảy ra mâu thuẫn. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt, chị B xin ly hôn anh S tại Tòa án. Trong quá trình làm việc và tại phiên tòa anh S không đồng ý ly hôn vì cho rằng vẫn còn tình cảm với chị B.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị Thanh B về việc xin ly hôn với anh Phạm Văn S thì thấy rằng: Chị B, anh S kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trung Dũng, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai vào ngày 20/10/2005 nên xác định hôn nhân giữa chị B, anh S là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị B và anh S đều xác định vợ chồng có nhiều mâu thuẫn. Trong biên bản lấy lời khai ngày 21/6/2019 cháu Phạm Vũ Kim N và Phạm Vũ Quỳnh G là con chung của chị B, anh S cũng xác định trong quá trình chung sống chị B, anh S có nhiều lần gây gỗ, cãi vã nhau, có một số lần khi đi nhậu về thì anh S có đánh chị B. Mặt khác tháng 8/2018 chị B đã từng nộp đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long Thành giải quyết cho ly hôn với anh S nhưng sau đó chị đã rút đơn để tạo điều kiện cho anh S sửa chữa khuyết điểm nhưng anh S vẫn không thay đổi tính tình. Xét thấy, vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, quá trình ly thân đã lâu nhưng vợ chồng không bàn bạc đoàn tụ được chứng tỏ mục đích hôn nhân không đạt. Do đó không thể buộc một cuộc hôn nhân tồn tại mà không có hạnh phúc, vì vậy việc chị B xin ly hôn anh S là có căn cứ chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng chị B, anh S có 02 con chung tên Phạm Vũ Kim N, sinh ngày 15/11/2007 và cháu Phạm Vũ Quỳnh G, sinh ngày 12/3/2010, hiện 02 cháu đang sống chung với chị B. Trường hợp ly hôn chị B, anh S thỏa thuận giao 02 con cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng. Xét việc thỏa thuận nuôi con của các đương sự là không trái pháp luật và đạo đức xã hội cũng phù hợp với nguyện vọng của hai cháu N và cháu G nên ghi nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do các bên không yêu cầu nên không xét.

Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên không xét.

[3] Về án phí: Chị B là người nộp đơn xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 235, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 11 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Thanh B về việc xin ly hôn với anh Phạm Văn S. Xử cho chị Vũ Thị Thanh B được ly hôn với anh Phạm Văn S.

2. Về nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị B, anh S giao con chung là cháu Phạm Vũ Kim N, sinh ngày 15/11/2007 và cháu Phạm Vũ Quỳnh G, sinh ngày 12/3/2010 cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn chị B, anh S vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Anh S có quyền thăm nom con; không ai được cản trở anh Hùng thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

4. Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên không xét.

5. Về án phí: Chị Vũ Thị Thanh B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0005062 ngày 29/5/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Chị B đã nộp đủ án phí.

Chị B, anh S được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về