Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 25/2019/TLST- HNGĐ, ngày 18/01/2019  về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/3/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị N, sinh năm 1980. Nơi cư trú: số nhà 48, đường số 4, thôn 1, xã T, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Ông Cao Thái V, sinh năm 1982. Nơi đăng ký thường trú: thôn 1, xã T, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Nơi ở hiện nay: số 113, đường N, khu phố 7, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN 

Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/01/2019, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Phạm Thị N trình bày: Năm 2013, bà và ông Cao Thái V tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng và có với nhau 01 con chung tên Cao Ngọc L, sinh ngày 05/5/2015. Ngày 25/10/2017, ông bà mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được vài năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông V không chăm lo làm ăn, đánh bài bạc gây nợ nần trong gia đình. Ngoài ra, ông V thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn nhiều lần đánh đập bà. Ông bà đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay, mỗi người sống một nơi, không còn liên lạc, quan tâm đến nhau. Nay bà nhận thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà cương quyết yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn; Về con chung: hiện cháu L đang do bà trực tiếp nuôi dưỡng, do đó khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu ông V phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, TAND huyện Đức Linh đã thông báo thụ lý vụ án và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn không có mặt nên không thể lấy lời khai của ông V cũng như tiến hành phiên họp theo quy định.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh trình bày quan điểm như sau: Về thủ tục tố tụng thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung thì căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: cuộc sống hôn nhân giữa bà N và ông V đã nhiều lần xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay nhưng vẫn không hàn gắn được tình cảm, hiện mỗi người sống một nơi, không còn quan tâm lẫn nhau. Từ đó có căn cứ khẳng định mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N là có căn cứ. Về con chung nên giao cháu L cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Đề nghị hội đồng xét xử căn cứ quy định pháp luật để giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Trên cơ sở đơn khởi kiện của nguyên đơn, TAND huyện Đức Linh đã xác định quan hệ tranh chấp “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng pháp luật.

Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì TAND huyện Đức Linh thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về áp dụng án lệ: Sau khi rà soát các án lệ đã được Chánh án TANDTC công bố thì thấy rằng: nội dung tranh chấp của vụ án này không có những tình tiết, sự kiện tương tự đã được nêu trong án lệ nên Hội đồng xét xử không áp dụng án lệ mà căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án này.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn vắng mặt không có lý do và đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông V là đúng pháp luật.

 [2] Về nội dung: Xét thấy bà Phạm Thị N và ông Cao Thái V tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định nên hôn nhân này hợp pháp. Căn cứ lời khai của bà N và giấy khai sinh của Cao Ngọc L thì có đủ cơ sở xác định, cháu L là con chung của bà N và ông V. Do đó, căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử xác định đây là sự thật.

Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, bà N cho rằng không còn tình tình với ông V và cương quyết yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với lý do ông V không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn về nhà đánh đập bà, mặc dù bà N nhiều lần cho cơ hội sửa chữa nhưng ông V vẫn không thay đổi, vợ chồng đã ly thân hơn 04 tháng nhưng vẫn không hàn gắn được tình cảm. Lời khai này của bà N phù hợp với biên bản xác minh của Tòa án về tình trạng hôn nhân của bà N và ông V. Ngoài ra, hiện tại ông V và bà N mỗi người sống một nơi, không còn qua lại thăm hỏi, quan tâm nhau. Từ đó có sở sở khẳng định tình cảm vợ chồng giữa bà N và ông V đã thật sự rạn nứt, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N là có căn cứ và đúng pháp luật.

Về con chung: Hội đồng xét xử nhận thấy hiện cháu L còn nhỏ, cần sự quan tâm chăm sóc từ người mẹ. Bà N có công việc và thu nhập ổn định. Do đó, căn cứ Điều 81 và 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần giao cháu L cho bà N trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng là phù hợp. Do bà N không yêu cầu ông V phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét trong bản án này. Nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

Về tài sản chung: Các đương sự không tranh chấp và không yêu cầu giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét trong bản án này.

 [3]  Về  án  phí:  Căn  cứ  Điều  27  Nghị  quyết  số  326/UBTVQH  14  ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm án phí, lệ phí Tòa án thì bà N là người khởi kiện ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn đúng quy định pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia  đình  năm  2014;  Luật  thi  hành  án  dân  sự;  Điều 27 Nghị quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử: 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị N.

- Về hôn nhân: Tuyên bố Phạm Thị N ly hôn Cao Thái V.

- Về con chung: Giao cháu Cao Ngọc L, sinh ngày 05/5/2015 cho bà Phạm Thị N được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Ông Cao Thái V có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Phạm Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí về ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí  đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0025089 ngày 18/01/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Linh. Bà N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án (17/4/2019); Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./-

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 17/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về