Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con của nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CỦA NAM NỮ SỐNG CHUNG VỚI NHAU NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN

Ngày 08/11/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 180/2019/TLST-HNGĐ, ngày 31 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2019/QĐXX-ST, ngày 01/10/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21/10/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phan Thanh X, sinh năm 1983, Địa chỉ: số 272, Ấp Mỹ H, xã MT, huyện MT, tỉnh ST (có mặt)

2. Bị đơn: Bà Ngô Mỹ H, sinh năm 1982, Địa chỉ: số 250, ấp Châu T, xã AN, huyện CT, tỉnh ST (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 17/7/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Phan Thanh X trình bày:

Ông Phan Thanh X và bà Ngô Mỹ H có tổ chức lễ cưới, dựa trên cơ sở tự nguyện và không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trong quá trình chung sống, ông và bà H có 02 con chung tên Phan Thị Yến Hồng, sinh ngày 03/3/2009 và Phan Mỹ Hân, sinh ngày 09/12/2010. Nguyên nhân mâu thuẫn là trong cuộc sống vợ chồng thường xảy ra cự cãi, bất đồng quan điểm sống. Từ đó, ông X cảm thấy sống chung không có hạnh phúc. Nay ông Phan Thanh X yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Phan Thanh X yêu cầu không công nhận quan hệ giữa ông và bà Ngô Mỹ H là vợ chồng.

Về con chung: 02 con chung tên Phan Thị Yến Hồng, sinh ngày 03/3/2009 và Phan Mỹ Hân, sinh ngày 09/12/2010, ông xin được nuôi dưỡng đến trưởng thành và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Đối với bà Ngô Mỹ H là bị đơn trong vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do và không có người đại diện tham gia phiên tòa, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b Khoản 2, Điều 227 và khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật và yêu cầu của đương sự:

[2] Nguyên đơn Phan Thanh X yêu cầu yêu cầu không công nhận quan hệ giữa ông và bà Ngô Mỹ H là vợ chồng, về con chung yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung tên Phan Thị Yến Hồng, sinh ngày 03/3/2009 và Phan Mỹ Hân, sinh ngày 09/12/2010 và không yêu cầu bị đơn Ngô Mỹ H cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con của nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn".

[3] Hội đồng xét xử xét thấy thực trạng mâu thuẫn giữa vợ chồng ông X và bà H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, Tòa án cũng đã tạo điều kiện để vợ chồng có cơ hội hàn gắn cuộc hôn nhân bằng việc tổ chức hòa giải nhằm để động viên vợ chồng hàn gắn, nhưng ông X vẫn kiên quyết, vì cho rằng không thể nào hàn gắn và sống chung với bà H được nữa, còn bà H thì đều vắng mặt. Nay ông X làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết xin được ly hôn với bà H. Nên căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông X không công nhận quan hệ giữa ông X và bà H là vợ chồng.

[4] Về con chung: Trong thời gian chung sống ông X và bà H có 02 con chung Phan Thị Yến Hồng, sinh ngày 03/3/2009 và Phan Mỹ Hân, sinh ngày 09/12/2010. Tại phiên tòa hôm nay, ông X yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung đến trưởng thành và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, trong thời gian ông X và bà H xảy ra mâu thuẫn, cháu Hồng và cháu Hân là con chung của ông bà, đã và đang sống chung với ông X ổn định, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con chưa thành niên và theo nguyện vọng của 02 cháu là được sống chung với ông X và nguyện vọng của ông X là được nuôi dưỡng cháu Hồng và cháu Hân đến trưởng thành. Từ những phân tích nêu trên, nên Hội đồng xét xử thấy rằng toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ để chấp nhận. Giao cháu Hồng và Cháu Hân cho ông X trực tiếp nuôi dưỡng đến trưởng thành, bà H không phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với bà H không trực tiếp nuôi con chung nhưng vẫn có quyền thăm nom con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con, theo quy định tại các Điều 58, 81, 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ông X không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung, nên không đặt ra để xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên ông X không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Ti phiên tòa, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa có ý kiến phát biểu nhận xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nhìn chung đều thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Thanh X không công nhận quan hệ gữa ông X và bà H là vợ chồng, về con chung: Giao cháu Phan Thị Yến Hồng, sinh ngày 03/3/2009 và Phan Mỹ Hân, sinh ngày 09/12/2010 cho ông X trực tiếp nuôi dưỡng đến trưởng thành, về cấp dưỡng: Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con chung, nên không đặt ra xem xét, về tài sản và nợ chung: Không có, ông X không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét.

Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm không có giá ngạch, theo quy định tại Khoản 4, Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự và Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016.

Về quyền kháng cáo của đương sự được thực hiện theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; Điều 58; khoản 2, Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của ông Phan Thanh X không công nhận quan hệ giữa ông Phan Thanh X và bà Ngô Mỹ H là vợ chồng.

1.1. Về con chung: Giao cháu Phan Thị Yến Hồng, sinh ngày 03/3/2009 và Phan Mỹ Hân, sinh ngày 09/12/2010 cho ông X được trực tiếp nuôi dưỡng đến trưởng thành.

1.2. Về cấp dưỡng: ông X không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con chung, nên không đặt ra để xem xét.

Bị đơn bà Ngô Mỹ H không trực tiếp nuôi con chung có quyền thăm nom chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

2. Về án phí sơ thẩm: ông Phan Thanh X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008805, ngày 17/7/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Nguyên đơn đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, Đối với bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bán án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bán án hoặc bản án được niểm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 08/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con của nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về