Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08/08/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2019/TLST-DS ngày 21 tháng 03 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/QĐXXST ngày 25 tháng 6 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 13/2019/QĐHPT ngày 19 tháng 07 năm 2019 về việc ly hôn giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hằng N, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Bị đơn: Anh Lê Tuấn A, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện cũng như bản tự khai ngày 25/5/2019 chị N trình bày:

1. Về diễn biến quan hệ hôn nhân và gia đình: Chị Trần Thị Hằng N và anh Lê Tuấn A đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 6/9/2016 tại UBND xã V, việc lấy nhau là tự nguyện. Sau khi kết hôn chị N và anh Lê Tuấn A đi làm ăn ở Hải Phòng, hai người sống hạnh phúc với nhau đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh A không chăm lo cho hai mẹ con chị và do anh A hay cờ bạc mang tài sản của vợ đi cầm cố để chơi bời, chị N đã khuyên bảo nhưng không chịu nghe từ đó vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn cãi, chị N thấy tình cảm vợ chồng không còn, đã ly thân từ cuối năm 2017 đến nay không quan tâm đến nhau nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lê Tuấn A.

2. Về con chung: Vợ chồng chị Trần Thị Hằng N và anh Lê Tuấn A có 1 con chung là cháu Lê Thanh T, sinh ngày 21/3/2017 hiện đang ở với chị N chị N đề nghị được nuôi con chung không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con vì chị làm công nhân thu nhập từ 5 triệu đến 6 triệu đồng một tháng. Từ khi ly thân anh A không có trách nhiệm gì với con nhưng chị N vẫn nuôi con phát triển binh thường.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Vợ chồng chị không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, chị N đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70,71, 234 BLTTDS; Anh Lê Tuấn A không thực hiện đầy đủ các quy định tại các Điều 70,72, 234.

Về đường lối đề nghị như sau: Căn cứ các Điều 5,147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Hằng N. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Hằng N và anh Lê Tuấn A.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Thanh T, sinh ngày 21/3/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc anh A không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị Trần Thị Hằng N và anh Lê Tuấn A. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

2. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị N, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Chị N đã nhận và chấp hành đầy đủ còn anh Lê Tuấn A vắng mặt không có lý do, vì vậy Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bà Đinh Thị N là mẹ đẻ của anh Lê Tuấn A đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Đến ngày 25/07/2018 Tòa án nhân dân huyện N đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về hôn nhân: Chị Trần Thị Hằng N và anh Lê Tuấn A kết hôn với nhau vào ngày 06/9/2016 tại UBND xã V, việc lấy nhau là tự nguyện, hôn nhân của hai người là hợp pháp. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng theo chị N trình bày dù đúng hay không thì trên thực tế thời gian sống hạnh phúc của vợ chồng chị N chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Hai người đã sống ly thân từ cuối năm 2017 không quan tâm gì đến nhau nữa, điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa họ đã mất. Xét khả năng đoàn tụ của hai người thực sự không còn, đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N. Xử ly hôn giữa chị N và anh Tuấn A là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

4. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thực tế chị N hiện nay là công nhân thu nhập lương mỗi tháng bình quân từ 5 triệu đến 6 triệu đồng nên cần giao con chung là Lê Thanh T, sinh ngày 21/3/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc về cấp dưỡng nuôi con chung cần chấp nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con vì vậy việc cấp dưỡng không đặt ra việc giảỉ quyết.

5. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ lời khai và yêu cầu của chị N và kết quả xác minh thì chị N và anh A không có tài sản chung và công nợ chung nên không đặt ra việc giải quyết.

6. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp theo quy định của Pháp luật. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị N đã nộp được chuyển sang án phí .

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Hằng N và Anh Nguyễn Tuấn A.

2. Về con chung: Giao con chung giao con chung là cháu Lê Thanh T, sinh ngày 21/3/2017 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Anh Lê Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị N cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh A trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Trường hợp anh A lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh A.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp 300.000đ, chị N đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0000079 ngày 21/3/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm chị N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngàyngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về