Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 05/04/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 35/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 05 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số 790/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1975 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Chị Hà Thị Mỹ V, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 12/11/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Nguyễn Văn N trình bày:

- Anh với chị Hà Thị Mỹ V cưới nhau năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoà Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang năm 2004. Anh chị chung sống hạnh phúc thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình, vợ chồng thường xảy ra xung đột, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, nên anh chị đã ly thân từ tháng 5 năm 2017 đến nay không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị V.

- Về con chung: Anh chị có hai con chung tên Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 20/4/2005 và Nguyễn Thị Xuân Đ, sinh ngày 08/10/2009, từ khi ly thân đến nay anh là người trực tiếp nuôi con chung. Khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung, không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con.

-Về tài sản chung,nợ chung: Không có.

* Bị đơn chị Hà Thị Mỹ V dù được Tòa án thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu xin ly hôn của anh N và được triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng chị V vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của chị cũng như yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh N.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Anh N có đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc hôn nhân với chị Hà Thị Mỹ V có địa chỉ tại ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Tiền Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a, khoản 1 Điều 35; Điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

- Đối với chị Hà Thị Mỹ V dù được Tòa án thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu xin ly hôn của anh N và được triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng chị V vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của chị, cũng như yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh N. Do đó Tòa án căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227 và khoản 3; Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vắng mặt chị V

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh N với chị V cưới nhau năm 2004, có đăng ký kết hôn. Anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 5 năm 2017 thì ly thân cho đến nay. Theo anh N khai là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xảy ra xung đột nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Do chị V có người khác bên ngoài. Nay anh không còn tình cảm với chị V nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị V.

Nhận thấy anh N với chị V cưới nhau năm 2004có đăng ký kết hôn nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống đến tháng 5/2017 thì ly thân, từ đó đến nay anh chị cũng không có biện pháp gì hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh N cương quyết ly hôn, còn chị V vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của anh N, xem như chị từ bỏ việc bảo vệ quyền lợi cho chị. Nhận thấy mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh N cho anh được ly hôn với chị V là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Anh chị có hai con chung tên Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 20/4/2005 và Nguyễn Thị Xuân Đ, sinh ngày 28/10/2009, từ khi ly thân đến nay anh N là người trực tiếp nuôi con chung. Khi ly hôn anh yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu chị V cấp dưỡng nuôi con. Còn chị V cũng không có ý kiền gì về con chung, nếu anh chị ly hôn. Nhận thấy từ khi ly thân đến nay anh N là người trực tiếp nuôi con chung đã ổn định. Mặt khác Nguyễn Thị Xuân M và Nguyễn Thị Xuân Đ cũng có ý kiến là được sống với anh N nếu anh chị ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của anh N là giao hai con chung của anh chị cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về việc cấp dưỡng nuôi con: Do anh N không yêu cầu cấp dưỡng, nên chị V không phải cấp dưỡng nuôi con. Nếu sau này có phát sinh về việc cấp dưỡng nuôi con thì các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.

- Về tài sản chung, nợ chung: anh N khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh N là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ khoản 1, khoản 5, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; khoản 4, Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Nguyễn Văn Nhã - Cho anh Nguyễn Văn N được ly hôn với chị Hà Thị Mỹ V.

2. Về con chung: Giao hai con chung của anh chị tên Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 20/4/2005 và Nguyễn Thị Xuân Đ, sinh ngày 08/10/2009 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị V được quyền thăm nom, chăm sóc con chung sau ly hôn theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Anh N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh N đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 09512, ngày 06/12/2018 của Cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Xem như anh đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo: Anh N được quyền được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với chị V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Để Toà án nhân dân tỉnh Tiền giang xét xử phúc thẩm lại vụ án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 35/2019/HNGĐ-ST ngày 05/04/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:35/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về